Giải thích hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông
Derek Grossman - Hành Nhân (Danlambao) dịch: Bắc Kinh có thể đang thăm dò sự bền bỉ trong việc làm sâu sắc thêm quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Việt Nam đã có những câu hỏi nghiêm túc về tính bền vững của các cam kết an ninh của Hoa Kỳ đối với các đồng minh, đặt qua một bên Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương "tự do và cởi mở" có ý nghĩa như thế nào đối với các đối tác của Hoa Kỳ. Vụ việc Trung Quốc chiếm giữ Bãi Đá Cạn (Scarborough Shoal) từ Philippines - một đồng minh hiệp ước Hoa Kỳ - trong năm 2012 là ví dụ kinh điển được trích dẫn thêm vào sự suy đoán của Hà Nội về việc liệu Washington có đáng để cậy dựa vào hay không.
Trong quá trình thảo luận gần đây của tôi với các nhà đối thoại Việt Nam, một câu hỏi đã được đặt ra: sau một thời gian im lặng kéo dài trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc ở Biển Hoa Nam (SCS), tại sao Bắc Kinh lại bất ngờ quyết định làm mạnh tại Bãi Tư Chính? Và người ta có thể dễ dàng hỏi thêm tại sao cùng lúc Bắc Kinh mở một mặt trận mới bằng cách tiến hành một cuộc tập trận quân sự lớn tại quần đảo Hoàng Sa? Tôi nghĩ rằng có một số yếu tố để trả lời những câu hỏi này.
Đầu tiên, mặc dù Bãi Tư Chính đại diện cho những căng thẳng xung đột tồi tệ nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc tại SCS kể từ khi giàn khoan dầu Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) diễn ra vào tháng 5 năm 2014, nhưng trong 5 năm qua, hầu như không có sự cố hay căng thẳng nào. Trong hai năm liên tiếp, Trung Quốc đã gây áp lực rất lớn đối với Việt Nam trong việc ngăn chặn việc khoan hydrocarbon ở các khu vực mà Việt Nam coi là thềm lục địa của mình theo Công ước UNCLOS, nhưng Trung Quốc coi đó là khu vực tranh chấp. Trong ví dụ năm 2018, Bắc Kinh đã buộc Hà Nội phải hủy hợp đồng trị giá 200 triệu USD với công ty năng lượng Repsol của Tây Ban Nha để khám phá đáy biển ngoài khơi bờ biển phía Nam Việt Nam. Hơn nữa, các tàu dân quân đánh cá Trung Quốc được cho là thường xuyên đâm tàu đánh cá Việt Nam ngay cả khi Hà Nội chủ yếu cố gắng đưa các hoạt động đó ra khỏi tiêu đề báo chí, tránh né để giữ bình tĩnh trong mối quan hệ song phương. Tuy nhiên, căng thẳng đã xuất hiện vào đầu năm nay và cuối cùng, Việt Nam đã quyết định đưa một tàu Việt Nam bị đắm tại tàu Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) được trưng bày cùng với video về sự xâm lược của Trung Quốc.
Thứ hai, Trung Quốc chỉ tiếp tục thực thi một cách quyết đoán các yêu sách quá mức của mình trên khắp SCS và khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương rộng lớn hơn. Chẳng hạn, bắt đầu từ cuối năm ngoái, dân quân đánh cá Trung Quốc sử dụng hàng trăm tàu thuyền đã tràn vào và bao vây đảo Thị Tứ/ Pag-asa, vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines. Các chiến thuật vùng xám như thế này được thiết kế để quấy rối ngư dân Philippines và tạo ra căng thẳng ở Manila về việc hòn đảo này có thể phòng thủ hay không. Ở những nơi khác trong biển Đông, Bắc Kinh từ năm 2013 đã tuần tra không mệt mỏi các bãi cạn Luconia, tranh chấp với Malaysia và bên ngoài biển Đông, Trung Quốc đã đẩy mạnh số vụ xâm nhập vào tranh chấp Senkaku / Điếu Ngư ở Biển Hoa Đông (ECS) thách thức kiểm soát thực tế của Nhật Bản.
Thứ ba, Bắc Kinh hiện có khả năng thực thi pháp luật và quân sự lớn hơn đáng kể trong tay để thách thức các bên tranh chấp khu vực, như Việt Nam. Trung Quốc có lực lượng hải quân, bảo vệ bờ biển và dân quân đánh cá lớn nhất thế giới và Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) đã liên tục mài giũa các hoạt động chung trong các lĩnh vực không quân và hải quân để chiến đấu trong tương lai ở SCS, ECS hoặc trong một kịch bản Đài Loan. Ngoài ra, việc Trung Quốc hoàn thành hoạt động cải tạo đất và thiết lập các căn cứ hải quân và không quân trên các thực thể nhân tạo nằm rải rác trên SCS, cho dù ở Hoàng Sa hay Trường Sa, cung cấp cho Bắc Kinh những điểm mới để cung cấp năng lượng, do đó dễ dàng hơn duy trì tuần tra liên tục đến các khu vực tranh chấp. Thật ra, vào đầu tháng 8, một tàu khảo sát của Trung Quốc liên quan đến tranh chấp ở Bãi Tư Chính là tàu Hải Dương Địa Chất 8 (Haiyang Dizhi 8), đã trở lại không phải ở bờ biển Trung Quốc, mà là một trong những căn cứ hải quân mới của Bắc Kinh trên Đá Chữ Thập ở Quần đảo Trường Sa. Đến giữa tháng 8, Hải Dương Địa Chất đã trở lại vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam (EEZ). Xa hơn, nếu Bắc Kinh trên thực tế đang xây dựng các cơ sở hải quân và căn cứ không quân ở Campuchia, thì Việt Nam sẽ phải đối mặt với một mối đe dọa bổ sung ở sườn phía Tây.
Thứ tư, sự xói mòn của quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc trong những năm gần đây, đặc biệt là trong bối cảnh SCS, đã khiến Bắc Kinh ngày càng tìm cách bảo vệ các yêu sách của mình chống lại các hoạt động tự do hàng hải (FONOPs) do Hoa Kỳ lãnh đạo. Chẳng hạn, vào cuối tháng 6, lần đầu tiên PLA đã thử nghiệm một tên lửa đạn đạo chống hạm, có thể là "sát thủ tàu sân bay" DF-21D và một biến thể DF-26 tầm xa hơn, ở khu vực gần quần đảo Trường Sa. Theo đuôi tàu của Hoa Kỳ và cảnh báo rằng chúng là bất hợp pháp trong vùng biển nội địa Trung Quốc trong thời gian FONOP đã làm gia tăng căng thẳng trong những tháng gần đây. Vụ việc lớn cuối cùng xảy ra vào đầu tháng 10 năm 2018 và liên quan đến tàu khu trục lớp Luyang của Hải quân PLA đã đóng cửa trong phạm vi 45 mét của USS Decatur. Một mối quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc ngày càng xấu đi có thể dẫn đến hành vi thậm chí quyết đoán hơn của Trung Quốc để đẩy lùi, không chỉ chống lại chính Hoa Kỳ, mà còn trên toàn khu vực.
Từ quan điểm này, Bắc Kinh có thể đang thăm dò mức độ bền vững của việc tăng cường quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam ngày càng sâu sắc. Việt Nam đã có những câu hỏi nghiêm túc về tính bền vững của các cam kết an ninh của Hoa Kỳ đối với các đồng minh, bỏ qua một bên Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương "tự do và cởi mở" có ý nghĩa gì đối với các đối tác của Hoa Kỳ. Vụ việc Trung Quốc chiếm giữ bãi cạn Scarborough từ Philippines - một đồng minh hiệp ước Hoa Kỳ - trong năm 2012 là ví dụ kinh điển được trích dẫn thêm vào sự suy đoán của Hà Nội về việc liệu Washington có đáng để cậy dựa vào hay không. Và Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ hùng biện từ Hoa Kỳ trong cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu tháng 5 năm 2014 và điều tương tự cũng đã xảy ra ngày hôm nay tại Bãi Tư Chính.
Cuối cùng, như tôi đã viết trước đây, PLA có thể tìm kiếm cơ hội để kiểm tra khả năng ngày càng tăng của nó để tiến hành các hoạt động chung, và thật không may cho Hà Nội, Bãi Tư Chính có thể chỉ là một cơ hội như vậy. Tuy nhiên, điều này trước tiên sẽ bắt buộc Trung Quốc đưa tàu chiến của mình vào cuộc chơi và điều này vẫn chưa xảy ra. Dù bằng cách nào, Việt Nam không có liên minh quân sự và là một cường quốc cỡ trung bình với quân đội, lực lượng thực thi pháp luật và lực lượng dân quân đánh cá có thể tương đối dễ dàng bị đánh bại khi thiếu kinh nghiệm chiến đấu trên biển.
Có lẽ câu hỏi nổi bật hơn trong tất cả những điều này là Việt Nam có thể làm gì bây giờ để làm cho sự quyết đoán của Trung Quốc chống lại nó ít có khả năng tiến lên? Mặc dù tăng cường quan hệ đối tác quốc phòng Hoa Kỳ-Việt Nam trong thời gian ngắn có thể góp phần gây rắc rối với Trung Quốc, nhưng hợp tác chặt chẽ hơn về lâu dài có thể phục vụ để ngăn chặn Trung Quốc bởi vì Bắc Kinh sẽ rõ ràng hơn về sự hỗ trợ của Hoa Kỳ xung đột trong tương lai. Nhưng Washington là một phần của Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương sẽ phải chứng minh rằng họ không có kế hoạch cho phép một Bãi Đá Cạn 2.0, có thể là một trật tự cao. Tăng cường hợp tác với Việt Nam, các đối tác quốc phòng khác, cụ thể là Úc, Nhật Bản và Ấn Độ, cũng có thể giúp ngăn chặn Bắc Kinh. Nhưng cuối cùng, Việt Nam có thể phải làm quen với một Trung Quốc ngày càng quyết đoán và nhận ra các giới hạn ảnh hưởng đến hành vi của mình khi đòn bẩy của Bắc Kinh chắc chắn tiếp tục gia tăng trong các tranh chấp của SCS.
Derek Grossman
Người dịch: