Huỳnh Tâm (Danlambao) - Giấc mơ của Việt Cộng bán hết Biển Đông.
(A) Theo tài liệu, Trung Cộng rất cần có trên tay chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa một trong ba quần đảo quan trọng nhất Biển Đông, sau khi có được nó sẽ thuộc một phần của tỉnh đảo Hải Nam nằm ở phía đông Nam. Cách trung tâm đảo Vĩnh Hưng (Yongxing), khoảng 330 km từ thành phố Tam Á Thị Du Lâm Cảng (Sanya Yulin Gang), cách khoảng hơn 330 km đi từ Văn Xương huyện Thanh Lan Cảng (Qinglangang). Quần đảo Hoàng Sa có diện tích hơn 30 ngàn km vuông biển, tổng cộng hơn 40 đảo và đá ngầm, tập trung vào hai nhóm: nhóm nhiều đảo nhất là Thiên Đường phương Tây gọi là đảo (Paradise). Ba trong các quần đảo ở Biển Đông, Hoàng Sa lộ thiên đất đai phì nhiêu, liên kết cụ thể với 22 hòn đảo, bảy bãi cát, tổng diện tích đất khoảng 10 km vuông.
Diện tích quần đảo Hoàng Sa, đất đảo được biết đến do ngư dân Việt Nam thường trú đặt tên từng hòn đảo, bãi cát, đá ngầm, đảo san hô, cồn cát, rạn đá ngầm và bãi ngầm:
1 - Quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islands) cách lục địa Việt Nam 180 hải lý, cách hải phận Quốc tế 20 hải lý (vùng biển kinh tế của Việt Nam 200 hải lý). Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi khoảng 15.000 km2, giữa kinh tuyến khoảng 111 độ Đông đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lý, (1 hải lý=1,853 km), từ 17°05’ xuống 15°45’ độ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là độ sâu hơn 1000m, giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.
2 - Nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group), bao gồm các thực thể địa lý ở phía đông bắc của quần đảo. Nhóm này bao gồm đảo Bắc, đảo Cây (đảo Cù Mộc), đảo Trung (đảo Giữa), đảo Đá, đảo Linh Côn, Đảo Nam, đảo Phú Lâm, đá Bông Bay, cồn cát Bắc, cồn cát Nam, cồn cát Tây, cồn cát Trung, hòn Tháp, đá Trương Nghĩa, bãi Bình Sơn, bãi Châu Nhai, bãi Gò Nổi, bãi Quảng Nghĩa, bãi Thủy Tề,...
Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, An Vĩnh là tên một xã vào thời chúa Nguyễn (Đàng Trong), thuộc huyện Bình Dương (tức huyện Bình Sơn) phủ Tư Nghĩa trấn Quảng Nam (Tư Nghĩa tức phủ Hòa Nghĩa, đến thời nhà Nguyễn thì trở thành tỉnh Quảng Ngãi). Sách Đại Nam thực lục (tiền biên, quyển 10) ghi chép về xã này như sau:
Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có hơn 100 cồn cát... chiều dài kéo dài không biết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn lý Hoàng Sa châu... Hồi quốc sơ đầu triều Nguyễn đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đến tháng ba cưỡi thuyền ra đảo, ba đêm thì tới nơi... Quốc sử quán (triều Nguyễn). Tên quốc tế của nhóm đảo là Amphitrite. Tên này là đặt theo tên một chiếc tàu Pháp trên đường đưa các giáo sĩ Châu Âu sang Viễn Đông, gặp nạn rồi đắm ở vùng Hoàng Sa vào cuối thế kỷ 17 .
Nhóm Lưỡi Liềm
Nhóm đảo Lưỡi Liềm (Crescent Group) quần đảo Vĩnh Lạc bao gồm các thực thể địa lý ở phía tây nam của quần đảo. Nhóm này còn được gọi là nhóm Trăng Khuyết hay nhóm Nguyệt Thiềm. Nhóm Lưỡi Liềm bao gồm đảo Ba Ba, đảo Bạch Quy, đảo Duy Mộng, đảo Hoàng Sa, đảo Hữu Nhật, đảo Lưỡi Liềm, đảo Ốc Hoa, đảo Quang Ảnh, đảo Quang Hòa, đảo Tri Tôn, đá Bắc, đá Chim Én (Yến), đá Hải Sâm, đá Lồi, đá Sơn Kỳ, đá Trà Tây, bãi Đèn Pha, bãi Ngự Bình, bãi Ốc Tai Voi, bãi Xà Cừ...
3 - Nhóm Lưỡi Liềm (Trăng Khuyết/Nguyệt Thiềm) Crescent Group.
5 - Đảo Bạch Quy (Passu Keah) 16°03′23″B 111°45′43″Đ, cồn cát chỉ chiếm diện. tích rất nhỏ so với toàn bộrạn san hô vòng (rạn vòng).
7 - Đảo Cây, Tree Island) tọa độ địa lý 16°58′47″B 112°16′16″Đ, đảo san hô.
8 - Đảo Duy Mộng (Drummond Island) tọa độ địa lý 16°27′50″B 111°44′30″Đ, đảo san hô.
9 - Đảo Đá (Rocky Island) tọa độ địa lý 16°50′40″B 112°20′50″Đ, đảo đá.
10 - Đảo Hoàng Sa (Pattle Island) tọa độ địa lý 16°32′5″B 111°36′30″Đ, đảo san hô.
11 - Đảo Hữu Nhật (Robert Island) tọa độ địa lý 16°30′20″B 111°35′10″Đ, đảo san hô.
12 - Đảo Linh Côn (Lincoln Island) tọa độ địa lý 16°40′B 112°44′Đ, đảo san hô.
13 - Đảo Nam (South Island) tọa độ địa lý 16°56′50″B 112°20′5″Đ, đảo san hô.
15 - Đảo Phú Lâm (Woody Island) tọa độ địa lý 16°50′B 112°20′Đ, đảo san hô.
16 - Đảo Quang Ảnh (Money Island) tọa độ địa lý 16°26′50″B 111°30′20″Đ, đảo san hô.
17 - Đảo Quang Hoà (ngư dân Việt Nam quen gọi là Đảo Trụ Cẩu) (Duncan Island) tọa độ địa lý 16°27′5″B 111°42′45″Đ, đảo san hô.
18 - Trong đó: Đảo Quang Hoà Tây (Palm Island) tọa độ địa lý16°27′8″B 111°42′3″Đ, cồn cát.
19 - Đảo Tri Tôn (Triton Island) tọa độ địa lý 15°47′0″B 111°12′0″Đ, đảo san hô.
20 - Đảo Trung (Middle Island) tọa độ địa lý 16°57′20″B 112°19′30″Đ, cồn cát.
21 - Cồn cát Bắc (North Sand) tọa độ địa lý 16°56′20″B 112°20′30″Đ;
22 - Cồn cát Nam (South Sand) tọa độ địa lý 16°55′45″B 112°20′45″Đ, cồn cát.
23 - Cồn cát Tây (West Sand) tọa độ địa lý 16°58′40″B 112°12′50″Đ, cồn cát.
24 - Cồn cát Trung (Middle Sand) tọa độ địa lý 16°56′0″B 112°20′40″Đ, cồn cát.
26 - Đá Bắc (North Reef) tọa độ địa lý 17°06′B 111°30′Đ, rạn vòng.
27 - Đá Bông Bay (Bombay Reef) tọa độ địa lý 16°02′B 112°32′Đ, rạn vòng.
28 - Đá Chim Én (Vuladdore Reef) tọa độ địa lý 16°20′B 112°01′Đ, rạn vòng.
29 - Đá Hải Sâm (Antelope Reef) tọa độ địa lý 16°27′B 111°35′Đ, rạn vòng. Ở góc đông nam có một cồn cát nhỏ.
30 - Đá Lồi (Discovery Reef) tọa độ địa lý 16°14′B 111°40′Đ, rạn vòng.
31- Bãi Bình Sơn (Iltis Bank) tọa độ địa lý 16°46′B 112°13′Đ, bãi ngầm.
32 - Bãi Châu Nhai (Bremen Bank) tọa độ địa lý 16°20′0″B 112°25′40″Đ, bãi ngầm.
33 - Bãi Gò Nổi (Dido Bank) tọa độ địa lý 16°49′B 112°53′Đ, bãi ngầm.
34 - Bãi Quảng Nghĩa (Jehangire Reefs/Bank) tọa độ địa lý 16°19′40″B 112°41′10″Đ, cụm rạn san hô/bãi ngầm.
35 - Bãi Ốc Tai Voi (Herald Bank) tọa độ địa lý 15°43′B 112°13′Đ, bãi ngầm.
36 - Bãi Thuỷ Tề (Neptuna Bank) tọa độ địa lý 16°32′0″B 112°40′30″Đ, bãi ngầm.
37 - Bãi Xà Cừ (Observation Bank) tọa độ địa lý 16°34′45″B 111°42′15″Đ, rạn san hô, trên đó có một cồn cát nhỏ.
37 - Đảo Lưỡi Liềm tọa độ địa lý 16°30′30″B 111°46′12″Đ
38 - Đá Sơn Kỳ tọa độ địa lý 16°34′36″B 111°40′0″Đ
39 - Đá Trà Tây tọa độ địa lý 16°32′48″B 111°42′48″Đ
40 - Đá Trương Nghĩa tọa độ địa lý 16°58′36″B 112°15′24″Đ
41 - Bãi Đèn Pha tọa độ địa lý 16°32′B 111°36′Đ
42 - Bãi Ngự Bình tọa độ địa lý 16°27′30″B 111°39′0″Đ
43 - Ngân Dự Tử tọa độ địa lý 16°35′B 111°42′Đ.
44 - Hàm Xá dự tọa độ địa lý 16°33′B 111°43′Đ.
45 - Khuông Tử sa châu tọa độ địa lý 16°27′B 111°38′Đ.
46 - Đông Tân sa châu tọa độ địa lý 16°55′B 112°21′Đ.
47 - Tây Tân sa châu tọa độ địa lý 16°55′B 112°21′Đ.
Những nhóm rạn san hô và bãi cát nhỏ:
48 - Đảo Kim Ngân 0.36 km
49 - Đảo Luân, đảo La Bá, đối đầu vòng 0.30 km
50 - Đảo san hô Lão Thố, Hương Hạ Nhân Chí 0,31 km
51 - Khúc Thủ Phong Phú có 0.02 km
52 - Áp Đảo (Vịt Đực) 0,01 km
53 - Trường Đảo Long hố bạc 0.01 km
54 - Đảo Bạc 2000 (mét vuông)
55 - Đảo Chí 3000 (mét vuông)
56 - Đảo Đá 2000 (mét vuông)
57 - Bốn Đảo Kính Tình, Giang Môn, Giang Chi Đảo, Giang Trị Thế 0.21 km
58 - Đảo Chân Máy, Chân Máy Đảo Lớn, 0,28 km
59 - Trí Quang (Zhi Guang) hay đảo vàng chân máy, chân máy nhỏ Đảo 0.06 km
60 - Đảo Đá Cây Trắng (Aberdeen), rạn san hô trắng 0.40 km
61 - Đảo Nửa Chừng, 1.20 km
62 - Đảo Vĩnh Hưng (Yongxing) Đảo Cát 2.10 km
63 - Đảo Tiểu Ba (Isle minibus) Đảo 0.08 km
64 - Đảo Nam Ba 0,17 km
65 - Đảo Hai Hòn 0.13 km
66 - Đảo Trường Trị Bắc (Changzhi North Island), đảo trường Long Island 0.04 km
67 - Đảo Triệu Cây 0.22 km
68 - Đảo Đông Cát 0.60 km
69 - Đá Nhọn, Đôi Cánh Buồm 0.04 km
70 - Giỏ Dải Cát Đối Đầu 0.01 km
71 - Dải Cát Mới 4000 (mét vuông)
72 - Tây Phương Tân 2000 (mét vuông)
73 - Nam Thủy Châu 0.06 km
74 - Bãi Cát 0.05 km
75 - Dải Cát Bắc 0.02 km
76 - Tây Châu Sa 0.04 km
Việt Cộng bác bỏ đề nghị Việt Nam Cộng Hòa lên án vụ Trung Cộng chiếm Hoàng Sa, Hồ Chí Minh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Nguồn: báo Chính Luận và Đông Phương, tài liệu Huỳnh Tâm.
Ngoài những đảo bãi cát trên mực nước biển Hoàng Sa, có hơn 10 rạn san hô bầy ẩn. Trong các rạn san hô, đảo lớn nhất Vĩnh Hưng 2.10 km vuông, chỉ đứng thứ hai hòn đảo phía đông của 1,60 km vuông, đảo Hải Vệ Nhất 1,20 km vuông, và phần còn lại có 0,4 km vuông hoặc ít hơn; Rạn đảo độ cao cao nhất 13 mét, 9 mét còn lại, thường là 1-5 mét. Tiêm Thạch cao trên mực nước biển là hòn đảo của núi lửa duy nhất.
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong vùng nhiệt đới, khí hậu gió mùa trung, nóng và ẩm, nhưng không có nhiệt. Đảo Vĩnh Hưng, nhiệt độ cực cao 34,9°C, nhiệt độ cực thấp 15,3°C, nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,5°C. Lượng mưa hàng năm 1505 mm. Quần đảo Hoàng Sa dễ bị tổn thương nhất đối với cơn bão lớn trong khu vực.
Quần đảo Hoàng Sa là một trong những ngư trường nổi tiếng nhất biển Đông và lan rộng dầu khí trong những rạn san hô, có nhiều giống hải sản phong phú quý hiếm, thu hút một số lượng lớn ngư dân Việt Nam sống nhờ ngư trường bạc biển, hoạt động quanh năm bốn mùa theo ngư sản quý hiếm.
Đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng).
Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa xem hai quần đảo Hoàng Nam và Trường Sa lớn hơn một đại đồ biển đảo trung tâm chiến lược Biển Đông, một lộ trình hàng hải của Thái Bình Dương cực kỳ quan trọng, tụ điểm phát triển quốc phòng và kinh tế, diện tích 2,10 km vuông, lớn nhất trong các đảo ở Biển Đông. Trên những hòn đảo có thực vật bảo vệ đất, nguồn nước, sinh vật cây hoa, thú vật hoang dã ở khắp mọi nơi, mực nước biển trong xanh, "chim bay cá lặn" viễn tượng cho những thế hệ mai sau một thiên nhiên giàu và đẹp một sức sống hoành tráng nhất của vùng Thái Bình Dương.
Giá trị của đảo Phú Lâm ví như thủ đô của quần đảo Hoàng Sa, quần đảo một cơ quan chính quyền kinh tế Biển Đông. Nơi đồn trú quân bảo vệ trong và ngoài lãnh thổ, lãnh hải của đất nước Việt Nam. Chính quyền địa phương thực hiện bảo vệ chủ quyền, tài phán vùng biển cho hậu thế, đồng thởi cam kết thúc đẩy nền văn hóa đảo và phát triển xã hội kinh tế biển của Việt Nam.
Đảo Phú Lâm tọa lạc phía tây nam của trung tâm giao thông tàu thuyền trong khu vực quần đảo cát. Lịch sử lâu đời nhất của đảo Phú Lâm đã được thành lập trước thế kỷ 17, trung tâm của các đường giao thông trên biển, ngư dân của Việt Nam đã đi thuyền đến khắp quần đảo Hoàng Sa, và quần đảo Trường Sa, quần đảo Trường Sa là nơi quá cảnh của đảo Phú Lâm. Ngoài các đội tàu đánh cá, vận chuyển hàng hải quy mô có khả năng cặp bến trung chuyển tại đảo Phú Lâm cũng là một trung tâm kinh tế trù phú nhất của thiên nhiên. Ngoài các chức năng quản lý kinh tế nhờ có sức mạnh của biển Đông. Nếu Việt Nam có khả năng lớn sẽ phát triển một số lượng lớn các đảo làm nơi chuyển vật liệu phân phối và xây dưng nền kinh tế-xã hội rất nhanh chóng, những đảo đá ngầm trong vùng đã đóng một vai trò chiến lũy tự nhiên, đồng thời có vai trò bức xạ hàng đầu an ninh và kinh tế.
Việt Cộng bán đảo Phú Lâm không khác nào mạch máu rời khỏi thân người để lại một xác thân khô, có ai đau lòng không nhỉ ? Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Không may cho dân tộc Việt Nam, Việt Cộng đã bán đảo Phú Lâm và trọn gói Hoàng Sa cho Trung Cộng, họ nhanh chóng xây dựng đảo Phú Lâm thành thị trấn, phát triển công nghiệp sản xuất hải sản, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, thương mại bán lẻ, cung cấp nguyên liệu và tiếp thị, tài chính và bảo hiểm, dịch vụ nhà ở và rất nhiều ngành công nghiệp khác của nền kinh tế Trung Cộng đã và đang phát triển nhanh chóng; Dịch vụ sức khỏe đảo, phát thanh, điện ảnh và công nghiệp truyền hình, nghiên cứu biển khơi, dự báo khí tượng, phát triển xã hội, văn hóa, du lịch, như vậy họ đã phát triển không ngừng; hòn đảo này đã hoàn thành nhà máy điện, cảng, sân bay, bệnh viện, lọc nước, kho đông lạnh, tòa nhà dịch vụ thương mại, cao ốc văn phòng, xây dựng khu dân cư v.v... tạo thành cơ sở sản xuất phục vụ xã hội có đời sống hoàn hảo theo mô hình Hồng Kông. Ngày nay đảo Phú Lâm không nằm trong giấc mơ của dân tộc Việt Nam, nó đã là trung tâm giao thông hàng hải của Trung Cộng.
Trước khi Việt Cộng bán đảo Phú Lâm cho Trung Cộng cũng đã tuyên bố: "dân tộc Việt Nam không dược quyền hưởng phúc lợi của đảo Phú Lâm". Ngày nay Việt Cộng thấy thế nào, đủ ô nhục chưa? Dân tộc Việt Nam có đau lòng không khi đảo Phú Lâm đã thuộc về Trung Cộng ?
Thời thanh bình của quần đảo Hoàng Sa.
Quần đảo Hoàng Sa ở phía đông có đảo Phú Lâm 60 km, diện tích 1,60 km vuông, các đảo ở Biển Đông nổi tiếng với nhiều loài chim biển, người ta khai thác những "Đảo Yến". đảo Yến Hòn Nội Nha Trang, đảo Yến Hội An, đảo Cù Lao Chàm, đảo Yến Phương Mai Bình Định. Năm 1971 phát hiện "Đảo Điểu" có nhiều cây Ma Phong Tùng bản lớn, lá ngắn cành thưa, phát triển thành một khu rừng, nơi sinh sống chính của Điểu Trắng; xung quanh các hòn đảo có suốt "Thảo Hải Đồng", cây Tóc Bạc và nhiều loại cây khác; cây dừa trồng lâu năm, phi lao v.v... và có những loài hoa tự nhiên sống khắp mọi nơi. Toàn bộ hòn đảo tươi tốt, xanh, đẹp ngoại lệ môi trường đảo nhiệt đới.
Đảo Đông mọc rất nhiều loài động vật trên cạn, dân cư nuôi Trâu bò, đàn dê, hiện có mười bốn nhóm gia súc khoảng 520 con bò, từng đoàn dê, có những con chó, gà lôi, vịt, mèo rừng. Những động vật hay sinh vật này có rất nhiều do ngư dân tạo ra đời sống riêng cho chúng, đảo đã trôi qua nhiều thế kỷ, chỉ cần quan sát, tìm hiểu nghĩa trang mới nhận ra sức sống của người dân trên đảo, đặc biệt họ sản xuất bằng phương pháp cổ truyền "thả giống", tất cả mọi sự sống ở đây không khác đời thường trong lục địa.
Đảo Đông "thiên đường" có hơn 50 loại chim biển, tổng cộng khoảng năm mươi ngàn con (50.000). Trường hợp "Điểu Trắng" có khoảng ba mươi ngàn (30.000). Những con chim kiếm sống nhờ cá biển, thường được di chuyển đến những đảo gần đó, tạo thành những đảo chim trên những rạn san hô phẳng.
Việt Cộng đưa ra biểu đồ bán nước, tất nhiên vô trách nhiệm. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
(B) Quần đảo Trường Sa.
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa tính đến đảo gần nhất là khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất là khoảng 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 và các Cam Ranh 250 hải lý, cách đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý. Quần đảo trải dài từ 6°2’ vĩ B, 111°28’ vĩ B, từ kinh độ 112°Đ, 115°Đ1.4) trong vùng biển chiếm khoảng 160.000 đến 180.000 km2. Tuy quần đảo Trường Sa bao la nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi trên mặt nước lại ít, tổng cộng 11km2.
Quần đảo Trường Sa nằm trên vị trí cực Nam-Tây-Bắc tương đối rất gần với Việt Nam, và Philippines trên biển phía Đông Bắc, vùng biển phía Nam có Indonesia, Malaysia, Brunei. Trung tâm của đảo Ba Bình, phía Nam cách quần đảo Phú Lâm Hoàng Sa 750 km. Quần đảo Trường Sa là lãnh hải chủ quyền của Việt Nam đã có từ muôn đời trước, nằm phía Nam Thái Bình Dương, khoảng 1.500 km về phía Nam của đảo Hải Nam, đảo Ngọc Lâm Giang. Quần đảo Trường Sa nằm trong vùng biển rộng lớn, đảo san hô phẳng lớn nhất trong các đảo ở Biển Đông, một quần đảo thiên nhiên phân bố rộng nhất. Đã được tìm thấy trên 200 đảo rạn san hô phẳng, trong đó có 11 đảo được tiếp xúc với vùng biển, 6 bãi cát, tổng diện tích đất của các đảo là khoảng 2 km, bằng phẳng.
Theo thống kê về số lượng đảo của Hải Học Viện Nha Trang thời VNCH, năm 1968 bao gồm 137 đảo, đá, bãi (1.5) không kể 5 bãi cát ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (bãi Phúc Trần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên và Tứ Chính).
Ngư dân Việt Nam thường trú trên đảo tự đặt tên đảo, bãi cát, đá ngầm.
1 - Đảo An Bang (Amboyna Cay) Toạ độ 7°52′10″B 112°54′10″Đ, Là một cồn cát dài 200 m, rộng 20 m và cao 2 m. Điều kiện môi trường tại đây rất khắc nghiệt.
2 - Đảo Nam Yết (Namyit Island) Tọa độ 10°10′54″B 114°21′36″Đ, Là một đảo san hô hình bầu dục, dài 600 m, rộng 125 m với diện tích 0,06 km2 và cách đảo Ba Bình 11 hải lí về phía tây nam. Việt Nam có kế hoạch lập một khu bảo tồn biển tại đây.
3 - Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island) Tọa độ 9°53′0″B 114°19′0″Đ, Là một đảo san hô dài 390 m, rộng 110 m, đất đai khô cằn, hầu như không trồng được rau xanh nếu không cải tạo đất.
4 - Đảo Sinh Tồn Đông (Grierson Reef/Cay Sin Cowe East Island) Toạ độ 9°54′18″B 114°33′42″Đ, Là một cồn cát nằm cách đảo Sinh Tồn 15 hải lí về phía đông. Cồn này dài 160 m, rộng 60 m, điều kiện khắc nghiệt.
5 - Đảo Sơn Ca (Sand Cay ) Tọa độ 10°22′36″B 114°28′42″Đ, Là một đảo cát nhỏ nằm cách đảo Ba Bình 6,2 hải lí về phía đông. Đảo này dài 450 m và rộng 130 m; đất đai khá màu mỡ nhờ một lớp mùn phân chim nên đảo có nhiều cây xanh
6 - Đảo Trường Sa Biệt danh: Trường Sa Lớn (Spratly Island) Tọa độ 8°38′30″B 111°55′55″Đ, Đảo này có tên gọi chính thức là Trường Sa nhưng nhiều nguồn tin tức và người tại đây thường dùng biệt danh Trường Sa Lớn. Trường Sa là đảo san hô đứng thứ tư về diện tích trong quần đảo (0,15 km2) và là trung tâm của thị trấn Trường Sa. Đảo có nguồn nước lợ, có đường băng, cảng cá, trạm khí tượng, lớp học, trạm xá,...
7 - Đảo Song Tử Tây (Southwest Cay) Tọa độ 11°25′46″B 114°19′54″Đ, Song Tử Tây nằm cách Song Tử Đông 1,5 hải lí về phía tây nam và nhỏ hơn Song Tử Đông một chút. Trên đảo có nhiều cây cối xanh tươi. Đảo có một ngọn đèn biển quan trọng..
8 - Đá Cô Lin (Collins Reef Johnson North Reef) Tọa độ 9°46′13″B 114°15′25″Đ, Là một rạn san hô nằm cách đảo Sinh Tồn 9 hải lí về phía tây nam và cách đá Gạc Ma 1,9 hải lí về phía tây bắc. Đá Cô Lin chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
9 - Đá Đông East (London) Reef Tọa độ 8°49′42″B 112°35′48″Đ, Là một rạn san hô vòng có diện tích khoảng 36,4 km2 và nằm cách đá Châu Viên 10 hải lí về phía tây
10 - Đá Lát (Ladd Reef) Tọa độ 8°40′42″B 111°40′12″Đ, Là một rạn san hô vòng có diện tích khoảng 9,9 km2 và nằm cách đảo Trường Sa 14 hải lí về phía tây. Đá chìm ngập dưới nước khi thuỷ triều lên..
11 - Đá Len Đao (Lansdowne Reef) Tọa độ 9°46′48″B 114°22′12″Đ, Là một rạn san hô nằm cách đá Gạc Ma khoảng 5,5 hải lí về phía đông bắc. Đá này chìm ngập dưới nước khi thủy triều lên. Đây là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988
12 - Đá Lớn (Discovery Great Reef) Tọa độ 10°03′42″B 113°51′6″Đ, Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Nam Yết 28 hải lí về phía tây tây nam.
13 - Đá Nam (South Reef ) Tọa độ 11°23′31″B 114°17′54″Đ, Là một rạn san hô nằm cách đảo Song Tử Tây 3,5 hải lí về phía tây nam.
14 - Đá Núi Thị (Petley Reef) Tọa độ 10°24′42″B 114°34′12″Đ, Là một rạn san hô nằm cách đảo Sơn Ca khoảng 6 hải lí về phía đông đông bắc. Diện tích của thực thể này là 1,72 km2.
15 - Đá Núi Le (Cornwallis South Reef ) Tọa độ 8°42′36″B 114°11′6″Đ, Là một rạn san hô vòng có diện tích 35 km2.
16 - Đảo Phan Vinh (Pearson Reef) Tọa độ 8°58′6″B 113°41′54″Đ, Xét theo khái niệm rộng là một rạn san hô vòng (rạn san hô vòng). Nơi đóng quân chính của hải quân Việt Nam có chiều dài 132 m và chiều rộng 72 m.
17 - Đá Tây (West (London) Reef) Tọa độ 8°51′B 112°11′Đ, Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Trường Sa 20 hải lí về phía đông bắc. Tại đây có khu dịch vụ hậu cần nghề cá và tổ hợp nuôi trồng thủy sản thí điểm.
18 - Đá/Bãi Thuyền Chài Barque Canada Reef Tọa độ 8°10′B 113°18′Đ, Là một rạn san hô vòng lớn có chiều dài 17 hải lí và chiều rộng 3 hải lí. Phá nước dài khoảng 11 km và rộng khoảng 2 km.
19 - Đá Tiên Nữ (Tennent Reef Pigeon Reef) Tọa độ 8°51′18″B 114°39′18″Đ, Là một rạn san hô vòng nằm ở cực đông của các thực thể thuộc Trường Sa đang do Việt Nam kiểm soát. Diện tích của đá khoảng 3,4 km2.
20 - Đá Tốc Tan (Alison Reef) Tọa độ 8°48′42″B 113°59′0″Đ, Là một rạn san hô vòng với chiều dài khoảng 20 km và chiều rộng khoảng 7 km. Diện tích trung bình là 75 km2.
21 - Đảo Trường Sa Đông (Central (London) Reef) Tọa độ 8°56′6″B 112°20′54″Đ, Là một rạn san hô vòng nằm cách đá Tây khoảng 6 hải lí về phía đông bắc và cách đá Đông khoảng 13 hải lí về phía tây bắc.
Những nhóm rạn san hô và bãi cát nhỏ.
22 - bắc tử đảo dòng thái nội la 0.14 km
23 - nam tử đảo nội la tất chí tử 0.134 km
24 - hải đảo trong các ngành công nghiệp sắt chì 0.334 km
25 - đảo đối đầu thứ ba 0.07 km
26 - Hoàng Sơn Ba Bình Machi 0.434 km
27 - Nam Yết Nam B, Nam 0,08 dày đặc km
28 - chánh huyền Đảo Cân móc 0.08 km
29 - Đảo Tây 0,16 km
30 - Đảo Nanshan lỗ Luo lớn, Luo lỗ 0.06 km
31 - Đảo Xin lỗ 0.04 km
32 - Đảo Nam đối với người cao điểm chim 0.15 km
33 - Bắc bên ngoài nội la đối đầu tiếp theo bầy dưới nước
34 - đôi ngầm vàng
35 - chậu đồng Đá An Nhơn, đồng và vàng (8000 mét vuông)
36 - Đảo Gạc Dong 0.09
37- Dải cát xanh 0,12 km
38 - an ba na đối đầu 0.02 km
Trung Cộng cướp đảo của Việt Nam 1988.
1 - Đá Châu Viên (Cuarteron Reef) Tọa độ 8°54′B 112°52′Đ, Là một rạn san hô vòng đa phần chìm ngập dưới nước, nằm về phía đông của đá Đông.
2 - Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef Northwest Investigator Reef) Tọa độ 9°35′B 112°54′Đ, Là một rạn san hô lớn nằm tách biệt khỏi các thực thể khác. Tổng diện tích hơn 110 km2. Đây là trung tâm đồn trú của Trung Quốc tại Trường Sa.
3 - Cụm đá Ga Ven (Gaven Reefs) Tọa độ 10°12′B 114°13′Đ, Cụm này gồm hai rạn san hô là đá Ga Ven và đá Lạc, lần lượt nằm cách đảo Nam Yết 8,5 và 7 hải lí về phía tây.
4 - Đá Gạc Ma (Johnson South Ree) Tọa độ 9°42′B 114°17′Đ, Là một rạn san hô nằm ở đầu mút tây nam của cụm Sinh Tồn và là một trong ba địa điểm diễn ra trận Hải chiến Trường Sa vào tháng 3 năm 1988.
5 - Đá Tư Nghĩa (Hughes Reef) Tọa độ 9°56′B 114°31′Đ, Là một rạn san hô nằm ở phía tây tây bắc của đảo Sinh Tồn Đông. Chỉ nổi lên khỏi mặt nước khi thủy triều xuống.
6 - Đá Vành Khăn (Mischief Reef) Tọa độ 9°55′B 115°32′Đ, Là một rạn san hô vòng đa phần chìm dưới nước, nằm cách đảo Vĩnh Viễn 51 hải lí về phía nam. Đây là nơi từng diễn ra nhiều tranh chấp căng thẳng giữa Philippines và Trung Quốc trong thập niên 1990.
7 - Đá Xu Bi (Subi Reef) Tọa độ 10°56′B 114°05′Đ, Là một rạn san hô vòng nằm cách đảo Thị Tứ 26 km về phía tây nam. Trung Quốc có dự định xây dựng một đường băng tại đây.
Tổng cộng: 7 thực thể địa lí; tất cả đều là rạn san hô.
Tình trạng chiếm đóng quần đảo của các nước Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Phân cụm đảo.
Do sở hữu rất nhiều thực thể địa lý nên quần đảo Trường Sa được các nhà hàng hải quốc tế cũng như một số quốc gia phân chia thành nhiều cụm riêng biệt dựa trên sự gần gũi hoặc tương đồng về mặt địa lý hay đơn thuần chỉ là phân chia tương đối.
Việt Nam được phân chia quần đảo Trường Sa thành tám cụm như cụm Song Tử, cụm Thị Tứ, cụm Loại Ta, cụm Nam Yết, cụm Sinh Tồn, cụm Trường Sa, cụm Thám Hiểm (cụm An Bang) và cụm Bình Nguyên.
Cụm Song Tử
Đá Nam là một rạn san hô (ám tiêu san hô) thuộc cụm Song Tử. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cụm Song Tử là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phần tây bắc của quần đảo Trường Sa. Gọi là Song Tử vì hai đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây như một cặp đảo song sinh, vừa nằm gần nhau vừa có kích thước gần như tương đương. Cặp đảo này hợp cùng các rạn đá san hô như đá Nam, đá Bắc ở khu vực lân cận để tạo nên một vòng cung san hô lớn mà tài liệu hàng hải quốc tế gọi là (cụm) rạn Nguy Hiểm Phía Bắc (North Danger Reef (s). Tuy nhiên, Việt Nam còn gộp hai rạn vòng ngầm dưới nước ở phía đông của rạn Nguy Hiểm Phía Bắc vào cụm Song Tử, cụ thể là bãi Đinh Ba và bãi Núi Cầu.
Cụm Thị Tứ
Đá Xu Bi là một rạn san hô vòng thuộc cụm Thị Tứ. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cụm Thị Tứ là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam của cụm Song Tử và phía bắc của cụm Loại Ta. Cụm này chỉ có một đảo san hô là Thị Tứ (đứng thứ hai về diện tích trong quần đảo), còn lại đều là các rạn đá như đá Hoài Ân, đá Vĩnh Hảo, đá Xu Bi... Đá Xu Bi là trường hợp cá biệt do tách biệt hẳn về phía tây nam so với tất cả các thực thể còn lại. Trừ đá Xu Bi thì đảo Thị Tứ và các rạn đá lân cận cùng nhau tạo thành cụm rạn Thị Tứ (Thitu Reefs) theo tài liệu hàng hải quốc tế.
Cụm Loại Ta
Cụm Loại Ta là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam của cụm Thị Tứ và phía bắc của cụm Nam Yết. Cụm này có hai đảo lớn là Loại Ta và Bến Lạc. Đảo Loại Ta là trung tâm của bãi san hô Loại Ta (Loaita Bank) theo cách gọi của tài liệu hàng hải quốc tế; về hai phía đông-tây của đảo là các cồn cát và rạn san hô như bãi An Nhơn, bãi An Nhơn Bắc, bãi Loại Ta... Về phía đông bắc của bãi san hô Loại Ta là một rạn đá ngầm lớn có tên là bãi Đường; tại đầu mút phía bắc của bãi này là một rạn đá ngầm với tên gọi đá An Lão. Trong khi đó, đảo Bến Lạc (đứng thứ ba về diện tích trong quần đảo) và đá Cá Nhám lại nằm tách biệt hẳn về phía đông của các thực thể trên.
Đảo Sinh Tồn Đông là một cồn cát thuộc cụm Sinh Tồn. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cụm Nam Yết
Cụm Nam Yết là một tập hợp các thực thể địa lý nằm ở phía nam cụm Loại Ta và phía bắc của cụm Sinh Tồn, gồm hàng loạt thực thể nổi bật như đảo Ba Bình (lớn nhất quần đảo), đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca, đá Én Đất, đá Ga Ven... Đa số các thực thể địa lí thuộc cụm này hợp thành một bãi san hô dạng vòng có tên gọi bãi san hô Tizard (Tizard Bank); theo tài liệu hàng hải quốc tế. Ngoài ra, về phía tây của bãi san hô Tizard còn có một số thực thể nằm riêng biệt như đá Lớn, đá Chữ Thập...
Đảo Trường Sa là một đảo san hô thuộc cụm Trường Sa. Trong ảnh: cầu tàu và một phần đảo Trường Sa. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cụm Sinh Tồn
Cụm Sinh Tồn là một tập hợp các thực thể địa lí nằm ở phía nam cụm Nam Yết. Khái niệm "cụm Sinh Tồn" hầu như đồng nhất với khái niệm bãi san hô Liên Minh hay cụm rạn Liên Minh (Union Bank/Reefs); của tài liệu hàng hải quốc tế. Cụm này chỉ có một đảo san hô là đảo Sinh Tồn, một cồn cát là đảo Sinh Tồn Đông, còn lại là rất nhiều rạn đá như đá Cô Lin, đá Gạc Ma, đá Len Đao,... Trong số này, đá Ba Đầu là rạn đá lớn nhất.
Cụm Trường Sa
Bãi Trăng Khuyết là một rạn san hô vòng thuộc cụm Thám Hiểm/An Bang. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Cụm Trường Sa là một tập hợp các thực thể địa lý nằm dàn trải theo chiều ngang từ tây sang đông ở phía nam của các cụm Nam Yết, Sinh Tồn và phía bắc của cụm Thám Hiểm, chủ yếu giữa hai vĩ tuyến 8° Bắc và 9° Bắc. Cụm này chỉ có một đảo san hô là đảo Trường Sa (biệt danh: Trường Sa Lớn), còn lại đều là rạn thường nói chung và rạn vòng nói riêng như đá Tây, đá Tiên Nữ, đảo Phan Vinh, đảo Trường Sa Đông... Bốn thực thể theo thứ tự từ tây sang đông gồm đá Tây, đảo Trường Sa Đông, đá Đông và đá Châu Viên cấu thành khái niệm cụm rạn Luân Đôn (London Reefs); theo tài liệu hàng hải quốc tế.
Cụm Thám Hiểm
Cụm Thám Hiểm hay cụm An Bang là một tập hợp các thực thể địa lí ở phía nam của quần đảo Trường Sa. Cụm này không có đảo san hô nào ngoài một cồn cát nổi bật là An Bang (quen gọi là đảo An Bang). Nhìn chung phần lớn thực thể của cụm này tạo thành một vòng cung lớn với phần lõm hướng về phía đông nam, trải dài từ đá Sác Lốt, qua đá Công Đo đến bãi Trăng Khuyết gần sát với Philippines. Một máng biển ngăn cách vòng cung này với thềm lục địa của đảo Borneo.
Cụm Bình Nguyên
Cụm Bình Nguyên là một tập hợp các thực thể địa lý hợp thành từ phần phía đông của quần đảo Trường Sa, trong khu vực gần với đảo Palawan. Tuy cụm này có nhiều thực thể địa lí nhất so với các cụm còn lại nhưng số này lại phân tán rải rác trên một vùng biển rộng lớn. Vĩnh Viễn và Bình Nguyên là hai đảo duy nhất của cụm, trong đó đảo Bình Nguyên đang chịu tác động của hiện tượng xói mòn. Số thực thể còn lại đều là những dạng rạn đá (ví dụ rạn vòng) và các bãi cát ngầm/bãi cạn cùng bãi ngầm.
Trung Quốc phân chia
Ngày 25 tháng 4 năm 1983, Nhật báo Nhân dân của Trung Quốc đã công bố danh sách cướp biển trên 287 địa danh thuộc Biển Đông, trong đó có tổng cộng 193 địa danh liên quan đến quần đảo Trường Sa. Về mặt tên gọi, Trung Quốc tự áp đặt địa danh tên mới trên mỗi hòn đảo theo ngôn ngữ Hán, loại bỏ ngôn ngữ Việt Nam, qua nhất trí giữa đàm phán bí mật về Biển Đông giữa Việt Cộng-Trung Cộng bí mật đàm phán chính thức bán Biển Đông cho Trung Cộng, như đảo, cồn cát (sa châu), rạn đá ngầm (ám tiêu), bãi cát ngầm/bãi cạn (ám sa), bãi ngầm (ám than) và cả các luồng lạch (môn, thủy đạo) cho phép tàu thuyền ra vào những đảo do Việt Nam kiểm soát. Trung Cộng hiện nghiên cứu đăng tải trên mạng Hải Nam "sử chí" Trung Quốc phân biệt cả các loại hình rạn đá khác nhau như rạn mặt bàn (đài tiêu) hay rạn vòng (hoàn tiêu) để làm cơ sở phân loại chi tiết hơn. Theo cách hiểu của Trung Quốc về quần đảo Trường Sa khác xa so với cách hiểu hiện thời của bản đồ hành chính Việt Nam về quần đảo Trường Sa.
Dưới đây là danh sách nhóm và phân nhóm của khái niệm Trường Sa theo Trung Quốc loan tải trên báo "Hải Nam sử chí":
Đảo Nam Yết.
Vuông độ cao hơn 6 mét trên mực nước biển.
Quần đảo Trường Sa nằm ở vĩ độ thấp, gần hơn về phía nam từ đường xích đạo, khí hậu nhiệt độ quanh năm, mùa là mùa hè. Ví dụ, Ba Bình, nhiệt độ trung bình hàng năm 27,9°C. Thay đổi nhiệt độ năm là nhỏ, tháng tư và tháng nóng nhất là 29,0°C, lạnh nhất tháng giêng là 26,8°C. Lượng mưa hàng năm 1842 mm, mùa mưa lên đến bảy tháng. So với một số đảo khác, quần đảo Nam Sa Typhoon nhỏ hơn. Bởi vì các cơn bão Tây Thái Bình Dương từ phía đông của Philippines và các cơn bão ở vùng biển gần quần đảo Trường Sa, quần đảo Trường Sa được hình thành, ảnh hưởng đến độ bám đường và bởi chuyển động quay của Trái đất bởi luồng không khí nhiệt đới trên biển, thường tây, hướng tây bắc, trung tâm bão ít cuộc xâm lược trực tiếp của quần đảo Trường Sa.
Đảo Ba Bình.
Nằm ở vĩ độ 10°23 ', kinh độ 114°22'. Hơi ở trung tâm của Biển Đông. Một diện tích 0,43 km vuông, là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa. Trung-Nhật chiến thắng chiến tranh, chính phủ Trung Quốc đã cử một "hòa bình giải quyết" tàu chiến để phục hồi các quần đảo Trường Sa, trong danh dự của các tàu chiến, tên cổ xưa của các bị cáo, "đối đầu" đổi tên "Đảo Hòa bình", ngư dân của Trung Cộng đã luôn luôn được gọi là đảo "Hoàng Sơn ngựa", hay "Hoàng Sơn Ma Zhi".
Ba Bình đã được phục hồi kể từ khi chiến thắng quân gửi Tỉnh Đài Loan của Trung Quốc, đã theo đuổi cho đến nay, đại lục và ngư dân đảo Hải Nam thường đi du lịch đến hòn đảo này, mỗi người đều đã lịch sự, như một quần eo biển và dân sự.
Môi trường đảo Ba Bình tự nhiên rất lạ. Hòn đảo này có một lớp rất dày tích tụ phân chim, làm cho đất rời, đất đai màu mỡ, đầy ánh nắng, lượng mưa dồi dào, các nhà máy có thể dễ dàng phát triển. Cây thường xanh, các loại rau và một loạt các loại cây nhiệt đới để cây có thể trồng trên đảo.
Đảo Tằng Mẫu Ám Sa (James Shoal).
Nằm ở vĩ độ 3°57.44'-3°59.00', kinh độ 112°16.25'-112°17.10'. Các phía nam quần đảo Trường Sa, nhưng cũng là điểm cực nam của lãnh thổ của Việt Nam. Phần phát triển của thềm lục địa ở Biển Đông, được ẩn trong nước từ một rạn san hô vùng biển nông. Chỉ có 17,5 mét cạn nhất. Một diện tích 2,12 km vuông của rạn gò. Rạn đầu hẹp hơn một chút và thấp rộng lớn, phía bắc và có xu hướng hơi cong. Toàn bộ rạn hình thái rất giống Hải Nam sản xuất xoài, cơ thể giàu ngay cả quy mô vừa phải.
Tằng Mẫu Ám Sa là lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam từ thời cổ đại. Các thế hệ của ngư dân buồm đến các đảo và đá ngầm của tuyến đường là rất quen thuộc với tình hình của các rạn san hô, các nhà khoa học hàng hải tiếp cận dài hạn với các rạn san hô trong nghiên cứu biển, nghiên cứu, các đảo và vùng biển lân cận là một số lượng lớn các thông tin dữ liệu nghiên cứu. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã luôn luôn được coi là một quốc phòng quan trọng ven biển James Shoal, gửi hoặc quân đội tuần tra, chính quyền tỉnh Khánh Hòa đã được sứ sứ mệnh thiện chí của đất nước tuần tra bảy ngày trong tuần và được đặt dưới quyền tài phán của các đài tưởng niệm để đánh dấu địa bàn tỉnh.
Quần đảo Trường Sa.
Quần đảo Trường Sa ở giữa Biển Đông, cách quần đảo Phú Lâm Hoàng Sa khoảng 230 km, hơn 570 km về phía tây bắc từ đảo Du Lâm Cảng, Hải Nam. Hiện có hơn 30 hòn đảo và rạn san hô, ngoại trừ đảo Hoàng Nham, nó gần như hoàn toàn giấu mình trong nước biển không được tiếp xúc với quần đảo này. Quần đảo "Trung Sa" cổ xưa gọi là "Trường Sa". Hầu hết quần đảo Trường Sa ở giữa vùng nhiệt đới. Đây là nơi sinh của các cơn bão biển Nam Trung Quốc.
Quần đảo Trường Sa rạn mặc dù hiếm khi bề lên mặt biển, nhưng ẩn trong các khu vực của dưới nước, rạn san hô, theo thống kê chưa đầy đủ, diện tích rạn san hô sâu dưới 20 mét vuông của 350 Km. Nước biển sạch, nhiệt độ bề mặt nước biển 25-28°C, nhất là phù hợp cho tất cả các loại sinh sản ở biển tăng trưởng. Do đó, quần đảo Trường Sa đã nổi tiếng về sản xuất dưa chuột, biển đánh bắt cá, tôm hùm, nghêu, hải sản quý khác và nổi tiếng năng suất cao, mỗi năm vào ngày 1 tháng 4, khi những con sóng biển ấm dần lên nhiệt độ bề mặt nước biển trong,
thuyền đánh cá ngư dân thi nhau sản xuất, chủ yếu là "bào ngư" giá trị nhất đánh bắt hải sâm, tôm hùm. Mỗi chuyến đi một vài tuần.
Đảo Hoàng Nham.
Còn được gọi là các rạn san hô Dân chủ, đảo rạn cát trên mực nước biển. Nó phát triển trong lưu vực sâu 3500m, giá trị đứng đầu hải đảo san hô lớn dưới nước cân xấp xỉ hình tam giác, diện tích khoảng 130 km vuông (bao gồm đầm phá), được bao quanh bởi một rạn san hô rải rác các khối tiếp xúc với nhau, 0,3-0,5 mét trên mực nước biển, bề mặt của kích thước khối san hô thường là 1-4 mét. Bắc đầu phía nam của rạn san hô sâu nhất, xa nhất phía Bắc, người ta được gọi là Bắc Nham, mũi phía nam được gọi là Nam Nham. Nam Nham được tiếp xúc với một trong các rạn san hô biển lớn, hình dạng của một hòn đá lớn, các khu vực trên của khoảng 30.000 mét vuông, 1,8 mét trên mực nước biển.
Trường Sa tài nguyên dồi dào. Bởi vì đông bắc Biển Đông dải khu vực thềm lục địa rộng lớn, ảnh hưởng trực tiếp bởi các dòng chảy ven biển của sông Cửu Long, dòng chảy đem lại năng suất sinh học cao, do đó, các vùng nước quần đảo Trường Sa là một trong những ngư trường quan trọng, đa dạng phong phú có nhiều hải sản quý hiếm, đặc biệt sản xuất rông biển chất lượng cao nổi tiếng nhất. Trường Sa là một ngư trường rộng lớn có một trữ lượng cá phong phú, và một trữ lượng dầu giá trị cao, khí đốt thiên nhiên dưới đáy biển. Quần đảo Trường Sa nhất định phát triển vô hạng, một kho tàng tài nguyên xuất hiện một nền kinh tế hoàn toàn mới và sinh lộ hàng hải giá trị nhất trong vùng Châu Á, ngoài ra còn sức sống quyền lực về chính trị, chiến lược quân sự rất quan trọng biển Đông. Việt Cộng đã thủ tiêu Hoàng Sa, Trường Sa, thử hỏi nhân dân Việt Nam có biết hay không, và bao giờ lên tiếng vì sự sống còn của Tổ Quốc Việt Nam?
Bài đã đăng:
16/07/2015
___________________________________________
Giấc mơ của Tập Cận Bình cướp Biển Đông.
Phụ Bản 1.
Đông Dương bao quanh. U- đường chín đoạn thuộc các vùng biển ở Biển Đông nằm bên trong và bên ngoài. Trung Cộng kẻ cướp Biển Đông, tạo ra những phức tạp về hải phận quốc tế, quốc gia chịu thiệt thói nhiều nhất là Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Phụ Bản 2.
Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa-chiến lược kinh tế tại Biển Đông, Việt Nam nhật định không còn chỗ từ lúc này (2015). Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Phụ Bản 3.
Trung Quốc cho rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một phần lãnh hải không thể tách rời Biển Đông Trung Quốc, theo những cuộc đàm phán song phương Việt Cộng cũng đã công nhật Biển Đông của Trung Quốc. Chiếu theo Hội Nghị bí mật Thành Đô Tư Xuyên năm 1990. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
Phụ Bản 4.
Trung Quốc là một con quái vật cướp Biển Đông của Việt Nam, bất chấp luật biển quốc tế. Trung Quốc, đang nỗ lực cho sự thích hợp nhất xây dựng những hòn đảo nhân tạo ở Hoàng Sa, tại ba nơi đải "Phú Lâm", đảo rạn san hô "Mạt Khắc", sau đó rạn san hô "Vĩnh Thử" mặc dù nhỏ hơn Phú Lâm, nhưng cải tạo tương đối dễ dàng và vị trí chiến lược quan trọng làm chủ Biển Đông. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.