Nguyễn Huệ Chi - Nhà văn Phạm Thị Hoài là người đã sống trong nước nhiều năm, điều ấy loại trừ khả năng chị không am hiểu chút gì về thực trạng đời sống tinh thần mà 85 triệu dân Việt bao nhiêu năm nay đã sống và đang sống (nếu tính ở miền Bắc là hơn 60 năm kể từ 1950, năm bắt đầu mở cửa tiếp nhận tư tưởng Mao, và nếu tính thêm miền Nam nữa thì cũng đã ngót nghét 40 năm). Vậy sao Hoài lại không hiểu được những thắt buộc ngặt nghèo nó khiến người ta tự biến mình thành con-người-không-tư-tưởng, để đầu óc cho người khác chiếm lĩnh, còn mình thì yên phận làm một thứ năng lượng chờ được kích hoạt và điều khiển mà thôi. Thử nghĩ, 60 năm và 40 năm, mấy thế hệ người Việt đã trưởng thành trong thói quen bất thường đó và cái bất thường dần trở thành bình thường như một căn tính nào có lạ gì?
Chỉ nhìn sang một nước như Bắc Triều Tiên, ta có thể tưởng tượng nổi hay không, cả một đất nước với 25 triệu dân không chỉ bị cùm kẹp về tinh thần đến tức thở mà còn phải chịu đựng những trận đói kinh niên làm con người sống dở chết dở hết đời ông đến đời cháu. Thế nhưng khi người thống trị 25 triệu dân là ông Kim Chính Nhật chết, chính những con người vật vờ đói lả và bị bưng tai bịt mắt như câm như điếc kia đã nhào đến quảng trường khóc ông ta như mưa như gió, đúng như câu thơ Tố Hữu “Thương cha thương mẹ thương chồng / Thương mình thương một thương ông thương mười”, thậm chí họ còn tin vào cả những thứ huyền thoại “thiên nhân cảm ứng” chẳng hạn trời đất đổ sa mù, các con mãnh thú cũng mò ra giữa đường gào khóc… – những huyễn tưởng chỉ có cách đây vài ba nghìn năm về trước – đó là vì sao?
Cùng là cộng sản với nhau, có ai nghĩ rằng người dân nước mình giờ đây đã không cam phận làm người dân Triều Tiên nữa? Nhưng đúng là vậy đấy Hoài ạ. Tôi dám đoan chắc với Hoài nếu không phải 99% thì cũng đã 89% người Việt ra khỏi sự ngu muội lương thiện đó. Không phải cộng sản cũng có đẳng cấp thứ hạng khác nhau đâu. Nói như nhà văn Pearl Buck “Chỉ có sự thật mới có sức kích thích làm cho người ta thức tỉnh. Hãy nói lên sự thật vì không có nó cuộc sống trở nên tối mịt”.
Những bản kiến nghị của trí thức trong nước phải đánh đổi bằng tù đày, thẩm vấn, sách nhiễu, mất việc làm… chính là kết tinh của sự thật đanh thép nhất chứ là gì nữa hở Hoài? Dù bản kiến nghị nào cũng chỉ mới có 2.000 người ký trở lại, nhưng trọng lượng của chúng không tính bằng số đếm như thế được, tôi nghĩ vậy đấy. Và tác dụng của những loại kiến nghị đó, như tôi đã nói ở đâu đấy, cũng đâu phải chí nhắm vào một mục tiêu duy nhất là đối tượng được gửi. Mục tiêu lớn hơn rất nhiều phải là sự đánh động lương tri, làm cho cả một cộng đồng tỉnh dậy. Và cũng chớ có nóng ruột nghĩ rằng một khi được đăng lên là ai cũng đọc được hết, và một khi đọc được là ai cũng tỉnh dậy được ngay. Trong môi trường một xã hội có đến 60 năm bị “điều kiện hoá” như xã hội chúng ta, trong một xã hội 85 triệu dân mà mới chỉ có khoảng vài ba triệu người dùng interrnet, và trong vài ba triệu ấy thì ít nhất cũng một nửa số đó không vượt được sự khống chế của bọn dựng tường lửa, đành cam phận giải trí bằng những tin giật gân trên các trang mạng chính thống, e rằng mơ ước như nói ở trên chỉ có trong phim ảnh, và cũng là trong phim ảnh của nước ta là cùng.
Dầu sao, đã là sự thật thì trước sau gì sức mạnh của nó cũng sẽ đâm chồi bén rễ, cho dầu ai đó có muốn đào sâu chôn chặt chúng đi! Tôi dám tin như thế đấy. Hoài hãy đối chiếu những bản kiến nghị về bauxite Tây Nguyên hồi tháng 5 năm 2009 với hiện tình tình khai thác bauxite trong thực tế mà xem, chẳng phải sự thật ấp ủ trong các bản kiến nghị đó đang được chứng minh một cách sống động dần dần, ngày một thêm rõ nét đó sao? Lại nữa, kể từ những bản kiến nghị thuở ấy, đến nay, chẳng phải người ta đã quen với việc có mặt các bản kiến nghị trong đời sống, như một nhu cầu tất yếu và bức thiết, không có không được nữa rồi đó sao? Đó chẳng phải là từng bước của sự thức tỉnh là gì! Nếu chỉ nhắm đến tác dụng tức thời của nó là muốn người cầm cân nẩy mực phải trả lời, còn không đạt được thì dẹp, không kiến nghị làm gì nữa cho mất công mất sức, thì hãy cân nhắc xem cái nhìn của mình có ngắn hạn quá chăng?