Nước, Quốc Gia, Dân Tộc, và Việt Nam Cộng Hòa - Dân Làm Báo

Nước, Quốc Gia, Dân Tộc, và Việt Nam Cộng Hòa

Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) - Tóm Lược: Ngược lại với tuyên truyền cộng sản rằng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chết sau khi cộng sản xâm lăng và chiếm đóng miền Nam Việt Nam vào năm 1975, VNCH vẫn còn sống và tiếp tục phồn vinh là một nước, tuy bị chiếm đóng, và là một dân tộc theo các định nghĩa, học thuyết, lý thuyết, về nước, quốc gia, và dân tộc. Như Liên Sô, Việt Nam cộng sản sẽ sụp đổ vì tàn bạo cực độ và lừa đảo cực độ. Ngoài ra, Việt Nam cộng sản là một quốc gia bấ́t hợp pháp, theo tân thuộc địa dưới ông chủ Tàu cộng, và là một quốc gia không có dân tộc. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản hiện nay không tránh được. Nước và dân tộc VNCH sẽ nổi lên để trở thành một quốc gia có chủ quyền cho toàn thể nước Việt Nam.

***

Trong bài về ý nghĩa lá cờ vàng của VNCH đối với người Việt hải ngoại (NVHN) (Cao-Đắc 2014), tôi viết, "Dựa vào định nghĩa rộng rãi của 'quốc gia' trên căn bản bốn yếu tố chính của dân tộc: ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống, và nguồn gốc dân tộc (Council 2005), tôi có thể lý luận là quốc gia Việt Nam Cộng Hòa chưa chết." Gần đây, trong một bài bác bỏ lý luận của Cù Huy Hà Vũ trong bài có hai phần của ông ta (Cao-Đắc 2015), tôi viết, "VNCH vẫn sống và phát huy mạnh mẽ là một nước, tuy bị chiếm đóng, và một dân tộc." Trong bài này, tôi sẽ khai triển khái niệm này và cho thấy VNCH quả thực vẫn còn sống và phồn thịnh là một nước, tuy bị chiếm đóng, và là một dân tộc. Ngoài ra, tôi sẽ cho thấy quốc gia Việt Nam cộng sản hiện nay là bất hợp pháp và trước sau gì cũng sẽ sụp đổ và sẽ được thay thế bằng nước (Nam) Việt Nam và/ hoặc dân tộc VNCH.

Bài này được chia làm ba phần. Phần A xem xét ý nghĩa của các từ ngữ "nước (country)," "quốc gia (state)," và "dân tộc (nation)" và tình trạng của VNCH trong mỗi loại. Phần B đưa đến kết luận rằng Việt Nam cộng sản là một quốc gia bất hợp pháp. Phần C thảo luận sự sụp đổ của đảng cai trị cộng sản và sự nổi lên của VNCH.

A. VNCH vẫn còn sống và phồn thịnh là một nước, tuy bị chiếm đóng, và một dân tộc:

Ta cần phải hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của các từ ngữ nước ("country"), quốc gia ("state"), và dân tộc ("nation"). Từ ngữ "quốc gia" (state) thực ra có nghĩa "quốc gia có chủ quyền hoặc quốc gia có quyền tối cao" (sovereign state) trong nội dụng hiện tại. Trong tiếng Anh, những từ ngữ này có định nghĩa khá rõ ràng tuy không phải ai cũng hiểu chúng hoàn toàn. Trong tiếng Việt, những từ ngữ này không có phân biệt rõ rệt, dẫn đến lẫn lộn, vô tình hay cố ý. 

Cho mục đích bài này và những lý do sẽ cho biết sau, tôi sẽ dịch các từ ngữ sau đây sang tiếng Việt như sau: country: "nước"; state: "nước/quốc gia"; sovereign state: "nước/quốc gia có chủ quyền" (với nhấn mạnh trên quyền tối cao, lãnh thổ, đất đai và sông ngòi biển cả); nation: "dân tộc/ quốc gia" (tùy vào bối cảnh); nation-state: "quốc gia dân tộc."

Đặc biệt, ta nên cẩn thận trong việc dịch chữ "nation" và "nationalism." Phần cuối (hậu tố) -ism ý chỉ "chủ nghĩa," "học thuyết," "trạng thái," "điều kiện," hoặc "bản chất," "đặc tính," "tinh thần" của một người hoặc một sự việc. Vì "nation" có thể có nghĩa "dân tộc" hay "quốc gia" tùy vào nội dung, chữ "nationalism" cũng có thể được dịch là "chủ nghĩa/ học thuyết quốc gia," "chủ nghĩa/ học thuyết dân tộc," "bản chất/đặc tính/tinh thần quốc gia," và "bản chất/đặc tính/tinh thần dân tộc." Trong khi cách phân biệt có thể có trong tiếng Anh dựa vào văn cảnh, ý nghĩa của các từ ngữ tiếng Việt này có thể khác nhau và tạo ra hiểu lầm hoặc lẫn lộn khi được đọc dưới nội dung của từ ngữ.

Thực ra, ngay cả trong tiếng Anh, khó định nghĩa các từ ngữ này. Đa số không phân biệt chúng và dùng chúng lẫn lộn. "Bất kỳ nỗ lực nào tìm một định nghĩa rõ ràng cho nước chẳng mấy chốc lao vào một rừng ngoại lệ và bất thường" (The Economist 2010). Những tiêu chuẩn như công nhận ngoại giao, thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ), khả năng phát sổ thông hành. v.v. đều không thỏa đáng. Thí dụ, Đài Loan không phải là thành viên của LHQ và có liên hệ ngoại giao chính thức với chỉ có 23 nước. Tuy nhiên, đó là một nước, và là một nước quan trọng. Các thí dụ khác là Kosovo, Northern Cyprus, Somaliland, State of Palestine, v.v. (Xem, thí dụ như, sđd.; Wikipedia 2015b).

1. VNCH là một nước bị quân cộng sản Việt Nam chiếm đóng:

"Một nước là một vùng được biết là một thực thể rõ ràng về địa lý chính trị (địa chính, political geography). Một nước (country) có thể là một quốc gia độc lập có chủ quyền hoặc một quốc gia bị chiếm đóng bởi một quốc gia khác, như là một phân chia chính trị không có chủ quyền hoặc có chủ quyền trước đó" (Wikipedia 2015a. Nhấn mạnh thêm.) Trong định nghĩa này, một nước có thể là một quốc gia có chính quyền có quyền tối thượng trên lãnh thổ và người dân, hoặc một quốc gia bị một quốc gia khác chiếm đóng và do đó có thể không có quyền tối thượng. Lịch sử thế giới, nhất là Thế chiến I và Thế chiến II, có nhiều thí dụ như vậy. Trong thế chiến thứ hai, nhiều nước bị Đức Quốc Xã (Nazi) chiếm đóng, kể cả Áo, Hòa Lan, Bỉ, Lục Xâm Bảo, Pháp, Đan Mạch, Nam Tư, Hy Lạp, Na Uy và Tây Ba Lan. Những nước này không có chính quyền của chính họ, hoặc chỉ có chính quyền bù nhìn, và ở dưới kiểm soát của Đức Quốc Xã và không có quyền tối thượng trên lãnh thổ của mình, nhưng những nước này hiện hữu. Sự chiếm đóng có thể được hóa trang là việc thống nhất đất nước, nhất là khi người dân của nước bị chiếm đóng có cùng dân tộc tính và nói cùng ngôn ngữ với lực lượng chiếm đóng. Thí dụ, Áo bị nhập vào Đức Quốc Xã dưới cớ là thống nhất (Anschluss) (Wikipedia 2015g).

Nên ghi chú rằng chính phủ một nước có thể là một chính phủ hợp pháp đại diện dân, hoặc là một chính phủ bất hợp pháp không đại diện dân. Trong Thế chiến thứ hai, chính phủ Vichy ở Pháp chỉ là chính phủ bù nhìn hợp tác với quân Đức Quốc Xã. Chế độ Saddam Hussein là thí dụ của một chế độ bất hợp pháp dù Saddam nắm quyền hơn 30 năm. Việt Nam cộng sản hiện nay là thí dụ một nước mà chính phủ cộng sản bất hợp pháp vì nó không đại diện dân, Đặc biệt, VNCH là thí dụ một nước bị chiếm đóng bởi phe cộng sản miền Bắc xưng là quốc gia, giống như nước Áo bị Đức Quốc Xã chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai. 

Với định nghĩa này, nước Nam Việt Nam, được đại diện bởi chính thể VNCH, vẫn còn sống và chỉ ở dưới sự chiếm đóng của phe cộng sản miền Bắc. Thực ra, toàn thể nước Việt Nam, kể cả miền Bắc và miền Nam, ở dưới sự chiếm đóng của phe cộng sản miền Bắc. Nước (Nam) Việt Nam, do đó, có y hệt vị thế như các nước Áo, Hòa Lan, Bỉ, Lục Xâm Bảo, Pháp, Đan Mạch, Ba Tư, Hy Lạp, Na Uy, dưới sự chiếm đóng của Đức Quốc Xã trong Thế chiến thứ hai. Sự khác nhau giữa nước (Nam) Việt Nam và đa số các nước Âu châu này là: (1) kẻ chiếm đóng, quân Đức Quốc Xã, nói ngôn ngữ khác với ngôn ngữ của các nước này (ngoại trừ Áo, vài vùng của Lục Xâm Bảo và Bỉ); và (2) thời gian chiếm đóng chỉ kéo dài 4 năm. Những sự khác biệt này, tuy nhiên, chỉ là hình thức và không phải nội dung.

Rất quan trọng phân biệt giữa nước Việt Nam được đưa ra thế giới bởi chế độ cai trị cộng sản hiện nay và nước Nam Việt Nam đang bị dưới sự chiếm đóng cộng sản. Lý do tại sao sự phân biệt này tinh tế và không rõ ngay với thế giới ở ngoài Việt Nam là vì phe chiếm đóng, cộng sản miền Bắc, đại diện bởi Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), cũng có gốc gác từ dân Việt. Hầu hết đảng viên ĐCSVN có gốc gác dân Việt (hoặc Kinh), có cùng màu da, vẻ mặt, và nói cùng ngôn ngữ với đa số dân Việt. Vì phe chiếm đóng hòa nhập dân dưới ách cai trị của chúng, thế giới bên ngoài Việt Nam tưởng lầm rằng lực lượng chiếm đóng này được bầu bởi dân để đại diện họ. Trên thực tế, không hề có bầu cử tự do và dân chủ tại Việt Nam từ khi quân cộng sản giành quyền.

Việt cộng có hai cách mô tả Chiến tranh Việt Nam. Tùy trường hợp, chúng sẽ lựa lý luận thích hợp để bào chữa hành động xâm lăng và sự chiếm đóng bất hợp pháp miền Nam Việt Nam.

Trong cách thứ nhất, chúng tuyên truyền rằng Chiến tranh Việt Nam là cuộc nội chiến và vì vậy không có xâm lăng. Miền Bắc thắng và đất nước được thống nhất vào 1975. Để hỗ trợ cái lý thuyết "nội chiến" này và giúp chúng thắng cuộc chiến, chúng lập ra Mặt trận giải phóng miền Nam và dựng nó là một phong trào trong miền Nam lật đổ chính quyền miền Nam (Duiker 1996, 213; Fall 1967, 183; Joes 2001, 49; Karnow 1997, 245). Trên thực tế, Mặt trận giải phóng miền Nam được kiểm soát và chỉ huy bởi miền Bắc và "Chính phủ Cách mạnh Lâm thời luôn luôn là một nhóm sinh ra từ VNDCCH" (Truong 1986, 268). Cái lý thuyết "nội chiến" bịa đặt này có nhiều người theo kể cả nhiều người không cộng sản trong miền Nam vì họ lẫn lộn giữa nội dung và hình thức. Bề ngoài, cuộc chiến được đánh bởi những người có cùng nét thể chất, văn hóa, lịch sử, và ngôn ngữ. Trên thực tế, Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến giữa hai quốc gia độc lập (Xem, thí dụ như, Cao-Đắc 2015), không phải là hai phe trong cùng một quốc gia, và do đó, nó không thể nào được định nghĩa là cuộc nội chiến. 

Nội chiến được định nghĩa là bất cứ một cuộc xung đột vũ trang nào liên hệ đến hành động quân sự bên trong thủ phủ của phe hệ thống quốc gia (Xem, thí dụ như Sarkees, 5; Fearon 2006). Nội chiến còn được gọi là cuộc "xung đột vũ trang không quốc tế" bởi các tổ chức quốc tế. Đặc biệt, "trong một xung đột vũ trang không quốc tế ít nhất một trong hai phe đối nghịch là một nhóm vũ trang không quốc gia" (ICRC 2012). Vì Bắc Việt và Nam Việt đều là quốc gia có chủ quyền trong chiến tranh Việt Nam, không có phe nào là nhóm vũ trang không quốc gia. Do đó, dưới các tiêu chuẩn quốc tế, Chiến tranh Việt Nam không phải là một cuộc nội chiến. Những người tin sai lầm cuộc chiến Việt Nam là cuộc nội chiến quả thực là bị lừa dối bởi cộng sản về Mặt trận giải phóng miền Nam hoặc lẫn lộn về định nghĩa của "quốc gia (state)" là một quốc gia tự chủ và "tiểu bang (state)" của Hoa Kỳ (Xem, thí dụ như, Wikipedia 2015i and Flaherty 2006 khi người phê bình Jane Flaherty trích dẫn sách nói là Cuộc Nội Chiến Mỹ tiêu biểu cho "cuộc chiến giữa các tiểu bang"). Ngoài ra, nhiều người không cộng sản, hoặc ngay cả chống cộng, thường liên kết Chiến tranh Việt Nam với sự mô tả "nội chiến" do từ tình cảm cho tình anh em của hai khối dân trong hai quốc gia. Trong khi việc này có vẻ là một hành động vô tội tưởng nhớ một quá khứ huy hoàng, nó rất nguy hiểm về phương diện chính trị vì nó dễ bị cộng sản khai thác và xuyên tạc.

Trong cách thứ hai, cộng sản tuyên truyền rằng Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh kháng chiến trong đó dân miền Bắc và cộng sản trong Nam đánh nhau với quân Mỹ đế quốc, kẻ xâm lăng Việt Nam. Bằng cách mô tả Chiến tranh Việt Nam là chiến tranh kháng chiến, cộng sản muốn thúc đẩ̀y nhiều ý tưởng bịa đặt. Ý tưởng thứ nhất là người Việt cộng sản "không có cách nào hơn là đánh" (Joseph 2008, 18) và do đó họ chỉ phòng thủ đất nước và không xâm lăng miền Nam. Ý tưởng thứ nhì là kêu gọi lòng ái quốc qua việc đồng hóa Chiến tranh Việt Nam với Chiến tranh Đông Dương thứ nhất chống Pháp và qua tuyên truyền rằng "những hành động của Mỹ và Pháp không công bình như nhau, và động cơ của hai nước này ắt phải là một và giống nhau: đô hộ Việt Nam" (sđd.).

Cho dù cộng sản nói gì, thực tế là Chiến tranh Việt Nam được đánh bởi hai quốc gia có tự chủ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) và Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), và do đó không thể nào là nội chiến, và lại càng không phải là cuộc kháng chiến khi cộng sản đem quân xâm lăng miền Nam (vào năm 1959) trước khi quân Mỹ đặt chân lên Việt Nam vào năm 1965. Việc người dân hai bên có nhiều đặc tính chung không thay đổi định nghĩa này. Người dân Áo và Đức có nhiều đặc tính chung nhưng khi Đức Quốc Xã chiếm đóng Áo trong Thế chiến thứ hai, sự chiếm đóng này không thể nào được gọi là thống nhất đất nước. Cuộc chiếm đóng miền Nam Việt Nam của cộng sản là bất hợp pháp vì nó vi phạm hiệp định Paris năm 1973. Nó là kết quả của một cuộc xâm lăng dài hạn dưới sự chỉ đạo của Liên Sô và Tàu cộng. Nước VNCH, do đó, không sụp đổ, mà chỉ bị chiếm đóng.

2. VNCH không là một quốc gia có chủ quyền/ quyền tối cao nhưng cái chủ quyền do cộng sản Việt Nam xưng thì bất hợp pháp:

Quốc gia (state) được định nghĩa bởi Max Weber là "cơ quan trong xã hội có độc quyền về bạo lực hợp pháp" (Gellner 2008, 3). Một quốc gia cũng có thể được định nghĩa lỏng lẻo là một "định chế hay một số các định chế liên hệ rõ rệt với việc thi hành lệnh" (sđd., 4). Một quốc gia, do đó, cần phải có quyền hành nào đó để áp đặt lên người dân sống trong lãnh thổ̉ nó kiểm soát.

Để mô tả quyền tối thượng này rõ rệt hơn, từ ngữ "quyền tối cao/có chủ quyền" (sovereign) thường được liên kết với từ ngữ "quốc gia." "Trong luật quốc tế, một quốc gia có quyền tối cao là một thực thể hành chánh tư pháp không vật chất được đại diện bởi một chính quyền trung ương có chủ quyền trên một vùng địa lý. Luật quốc tế định nghĩa các quốc gia có quyền tối cao là có dân số lâu bền, lãnh thỗ xác định, một chính phủ, và có khả năng tạo liên hệ với các quốc gia có chủ quyền khác" (Wikipedia 2015c). Quyền tối cao được định nghĩa với nhiều ý nghĩa khác nhau không nhất quán. Krasner (1999) đề nghị bốn ý nghĩa khác nhau của quyền tối cao: quyền tối cao trong nước, quyền tối cao liên độc lập, quyền tối cao luật pháp quốc tế, và quyền tối cao theo thuyết Westphalian. Trong quyền tối cao luật pháp quốc tế, vấn đề cốt yếu là quốc gia có được các quốc gia khác công nhận không (sđd.,14). 

Bất chấp các định nghĩa khác nhau của quyền tối cao, tầm quan trọng của một quốc gia có chủ quyền là quyền tối thượng trên dân và lãnh thổ, và khả năng có liên hệ ngoại giao với các quốc gia có chủ quyền khác. Những liên hệ ngoại giao này có thể gồm có thương mại, văn hóa, quân sự, và các hoạt động xã hội khác. Như thảo luận trên, một nước ở dưới sự chiếm đóng của một nước khác hay một phe của chính nó thì không phải là một quốc gia có chủ quyền. Những nước bị Đức quốc xã chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai không phải là quốc gia có chủ quyền. Nước VNCH, hiện đang bị cộng sản chiếm đóng, không phải là một quốc gia có chủ quyền. Nhưng điều đó không có nghĩa là các nước này ngừng hiện hữu. Thực ra, như lịch sử cho thấy, ngay sau khi Đức quốc xã bị lật đổ, các nước này lấy lại quyền tối cao và phồn thịnh từ đó. Tương tự, ngay sau khi chế độ cộng sản tại Việt Nam bị lật đổ, nước VNCH sẽ lấy lại quyền tối cao.

Ta nên ghi chú rằng quyền tối cao không nhất thiết hàm ý sự hợp pháp. Trong việc ngoại giao, đa số các quốc gia có chủ quyền không thắc mắc về tính chất hợp pháp của một quốc gia có chủ quyền khác vì quyền tối cao, nhất là quyền tối cao trong nước, là một vấn đề nội bộ hoặc trong nước. Ngoài ra, việc công nhận một quốc gia hoặc một chính phủ của một quốc gia có thể thay đổi qua thời gian trong tiến trình phát triển quốc tế. Thí dụ, Đài Loan đã được công nhận bởi hầu hết mọi cường quốc Tây phương trước thập niên 1970. Sau khi Tàu cộng được nhận vào LHQ năm 1979, Đài Loan duy trì liên hệ ngoại giao chính thức với chỉ có một ít nước. Ngoài ra, khi chính quyền của một quốc gia có chủ quyền trở nên quá tai ác trong việc đối xử với dân, cộng đồng thế giới có thể can thiệp. Thí dụ như, chính quyền Iraq dưới Saddam Hussein là một chính quyền bất hợp pháp mặc dù Iraq lúc ấy là một quốc gia có chủ quyền, là một thành viên của LHQ, và có liên hệ ngoại giao với nhiều quốc gia có chủ quyền khác. Sự thay đổi chế độ ở Iraq bằng hành động quân sự trong chính quyền Bush năm 2003 nhắm vào hai mục tiêu chính: (1) chấm dứt chương trình Vũ Khí Phá Hủy Đại Chúng (Weapons of Mass Destruction, WMD) và (2) hủy bỏ hỗ trợ cho khủng bố Al Qaeda. Đáng ghi nhớ, một mục tiêu phụ thuộc là giải phóng dân Iraq và đem lại ổn định và dân chủ trong vùng Trung Đông (Katzman 2005).

Quyền tối cao xưng bởi cộng sản Việt Nam là quyền tối cao bất hợp pháp vì quyền hành chưa từng bao giờ được ban cho đảng cộng sản cai trị bằng ý tự do của dân. Với chỉ có 4 triệu đảng viên trong một nước có 90 triệu người, rõ ràng là người cộng sản đại diện cho thiểu số và do đó không thể đại diện dân. Ngoài ra, như sẽ được thảo luận thêm nữa sau đây, nước Việt Nam cộng sản là một quốc gia có chủ quyền bất hợp pháp bởi vì, qua ĐCSVN, nó chỉ là một quốc gia tân thuộc địa dưới sự kiểm soát của Tàu cộng, ông chủ tân thuộc địa của nó.

3. VNCH là một dân tộc phát đạt có tính chất chống cộng là đặc điểm:

Dân tộc (nation) và chủ nghĩa/học thuyết/ tinh thần dân tộc (nationalism) là đầu đề của nghiên cứu và học hỏi rộng rãi trong thế kỷ qua. Tuy nhiên, cho tới nay, vẫn còn có nhiều lẫn lộn và tranh cãi về ý nghĩa của chúng. Đặc biệt, có những hiểu lẩm, lạm dụng, và lẫn lộn về chữ "nation" (dân tộc) và "state" (quốc gia) (Connor 1978, 36).

Trong bài này, tôi không có ý định thảo luận chi tiết các khái niệm của dân tộc và chủ nghĩa/học thuyết/ tinh thần dân tộc. Thay vào đó, tôi sẽ chỉ thảo luận các khía cạnh của các khái niệm này có liên hệ đến VNCH.

"Dân tộc có nhiều ý nghĩa, và ý nghĩa thay đổi theo thời gian. Khái niệm 'dân tộc' liên hệ với 'cộng đồng chủng tộc' hoặc chủng tộc. Một cộng đồng chủng tộc thường có huyền thoại về nguồn gốc và dòng dõi, cùng chung lịch sử, các yếu tố văn hóa đặc biệt, liên kết lãnh thổ chung, và ý thức đoàn kết nhóm. Một dân tộc, theo so sánh, thì ít tình cảm hơn, trừu tượng, và chính trị công khai hơn một nhóm chủng tộc. Nó là một cộng đồng văn hóa chính trị ý thức được sự chặt chẽ, đoàn kết, và những quyền lợi đặc thù của nó" (Wikipedia 2015d; 2015f). Nhiều tác gỉả và học giả định nghĩa dân tộc hoặc các tiêu chuẩn cho dân chúng được phân loại là dân tộc. Định nghĩa dân tộc rất khó vì "điểm thiết yếu của dân tộc thì không cụ thể" (Connor 1978, 36). Bất kỳ cái gì mà không cụ thể đều có thể có nhiều nghĩa tùy vào quan điểm của một người và các bối cảnh liên hệ.

Chữ "dân tộc" (nation) đến từ tiếng La tinh ý chỉ cùng chung máu mủ (Connor 1978, 38). Tuy nhiên, chữ "dân tộc" (nation) cũng được dùng để nói đến các khía cạnh khác hơn là cùng chung máu mủ hoặc chủng tộc. Vào đầu thế kỷ thứ 17, chữ đó được dùng để mô tả "những người cư ngụ của một nước" và sau đó để nói đến "dân chúng" hoặc "công dân" (sđd.).

Donnan and Wilson (2001, 6) định nghĩa dân tộc là "cộng đồng của những người liên hệ với nhau qua cùng chung văn hóa, có mục tiêu chính trị tối thượng là đạt được hình thức nào đó của độc lập, tự trị hoặc chuyển giao quyền lực." Họ phân biệt dân tộc với các nhóm chủng tộc qua vai trò chính trị trong một quốc gia, và qua các mục tiêu chính trị của họ (sđd.). Gellner (2008, 6-7) nhận ra rằng khái niệm về văn hóa chia sẻ thì thật quan trọng cho dù hơi phức tạp để định nghĩa rõ ràng văn hóa là gì. Theo Baycroft and Hewitson (2006, 5), Gellner tuyên bố "... đặc điểm căn bản của dân tộc và chủ nghĩa/ học thuyết/ tinh thần dân tộc là sự phát triển một nền văn hóa cao cấp, có học thức, và tiêu chuẩn hóa, và sự nối dài của nó tới toàn thể dân chúng qua giáo dục và truyền thông." Hobsbawm (1990, 37-38) tin rằng có ba tiêu chuẩn để là một dân tộc: sự liên hệ lịch sử với một quốc gia hiện tại hoặc một quốc gia với một quá khứ khá dài và cận đại, sự hiện hữu một nhóm tinh hoa văn hóa lâu đời, và một khả năng xâm chiếm được chứng minh. Anderson (2006, 6) định nghĩa dân tộc là "một cộng đồng chính trị được tưởng tượng - và được tưởng tượng là có giới hạn cố hữu và có quyền tối cao." Anderson phát biểu thêm rằng cộng đồng này được tưởng tượng là có quyền tối cao vì "dân tộc mơ ước được tự do" và "cái tiêu chuẩn đánh giá và biểu tượng cho sự tự do này là quốc gia có quyền tối cao" (sđd., 7). Weber (1948, 22) nhấn mạnh rằng dân tộc không giống y hệt như dân chúng của một quốc gia hoặc một cộng đồng nói cùng thứ tiếng. Greenfield (1992, 167-168) nhận định sự thay đổi ý nghĩa của chữ "dân tộc" (nation) theo thời gian.

Các thí dụ của dân tộc là: Dân tộc thổ dân Mỹ châu như dân tộc mọi da đỏ Cherokee (Native American Nations), dân tộc người Kurd (Black 2014).

Chính yếu, dân tộc nói về một nhóm người có gốc gác và ý muốn chính trị tương tự. Một đặc tính quan trọng của một dân tộc là không có lãnh thổ và công nhận quốc tế. Điểm trọng tâm của một dân tộc nằm ở người dân và các ý thích và quyền lợi chia sẻ như lịch sử, văn hóa, và các niềm tin chính trị.

Vì chữ "dân tộc (nation)" có thể có nhiều nghĩa như thảo luận trên, ta nên cẩn thận khi dịch chữ đó sang tiếng Việt. Dựa trên sự chú trọng vào người dân và các ý thích quyền lợi chia sẻ, có lẽ chữ gần nhất trong tiếng Việt là "dân tộc." Tuy nhiên, như Connor (1978, 36) vạch ra, chữ "nation" cũng thường được dùng để chỉ "state" (quốc gia) hoặc "sovereign state" (quốc gia có quyền tối cao). Sự lẫn lộn này còn sâu rộng cho các chữ khác trong cùng nhóm với "nation" như "national," "nationalist," và "nationalism." Connor (sđd., 40) ghi nhận, "Với các khái niệm về dân tộc và quốc gia lẫn lộn một cách vô phương cứu chữa, có lẽ không ngạc nhiên là nationalism có nghĩa xác định với quốc gia thay vì lòng trung thành với dân tộc."

Chúng ta không biết sự lẫn lộn này xảy ra như thế nào; có lẽ chữ "state" được hiểu là chính quyền trung ương thay vì khía cạnh lãnh thổ của một thực thể chính trị. Ngoài ra, dạng tính từ của "state" có thể không thịnh hành. Connor (sđd., 40) dùng "statal" là tính từ của state; nhưng "statal" có vẻ không thông dụng và có thể hàm ý khác hẳn (chẳng hạn như tính chất quyền lực trung ương của chính quyền). Tương tự, "statalist" hoặc "statalism" không thịnh hành hoặc có thể có ý nghĩa khác. Sự lẫn lộ̣̣n lại còn gia tăng thêm cho các từ ngữ chỉ các liên hệ toàn cầu, chẳng hạn như "international" (quốc tế). Tên của các tổ chức toàn cầu (thí dụ như, United Nations, International Monetary Funds) là "những diễn giải quan trọng cho cái khuynh hướng thông thường nhưng sai lầm trong việc đồng nghĩa quốc gia (state) và dân tộc (nation)" (sđd.). Vì những vấn đề này, chữ "nation" và dạng tính từ của nó "national" có thể được dịch sang tiếng Việt là "quốc gia" hoặc "dân tộc" tùy vào bối cảnh. Tương tự, như thảo luận trên, chữ "nationalism" có thể được dịch là "chủ nghĩa/ học thuyết quốc gia," "chủ nghĩa/ học thuyết dân tộc," "bản chất/đặc tính/tinh thần quốc gia," và "bản chất/đặc tính/tinh thần dân tộc" tùy trường hợp.

Tuy có sự lẫn lộn giữa các chữ "state (quốc gia)" and "nation (dân tộc)," khi được dùng thích đáng, ý nghĩa của chúng khá rõ, như thảo luận ở trên. Sắc thái chính của "dân tộc (nation)" là người dân và sắc thái chính của "quốc gia (state)" là lãnh thổ hoặc/và chính quyền trung ương.

Dưới định nghĩa của dân tộc, VNCH hiện tại, như được đại diện qua NVHN và đa số dân Việt Nam sống tại Việt Nam, là một dân tộc và là một dân tộc phồn thịnh. Sự kiện rằng đa số người miền Nam trước đây hiện đang sống cùng với người không thuộc miền Nam trên lãnh thổ Việt Nam không xóa bỏ những đặc điểm đặc thù về văn hóa, xã hội, và chính trị của người dân đã từng sống trên quốc gia có chủ quyền VNCH. Dân số của dân VNCH nguyên thủy được ước tính là khoảng 10 triệu người sinh sống tại Việt Nam vào năm 2014 (Cao-Đắc 2014), và ít nhất là 3 triệu NVHN sống trên khắp thế giới. Với dân số nguyên thủy hơn 13 triệu dân, người dân miển Nam Việt Nam, trong và ngoài nước, đại diện một cộng đồng chủng tộc đáng kể. Những người miền Nam Việt Nam này chia sẻ cùng văn hóa, cùng lịch sử, nói cùng ngôn ngữ, có cùng liên kết lãnh thổ (đất đai, sông ngòi, và các biển đảo của Việt Nam), và một tinh thần đoàn kết chính trị chống cộng cao. Họ cũng phát huy các chương trình văn chương, xã hội, và văn hóa trong dân. Với việc dùng Internet và các phương tiện truyền thông xã hội (thi dụ, Facebook, các tổ chức xã hội dân chủ), NVHN, người miền Nam, và toàn thề dân Việt sống trong Việt Nam đã thúc đẩy liên lạc, truyền bá tin tức, và giáo dục trong cộng đồng họ. Dân tộc VNCH vẫn sống và thịnh vượng, như được cho thấ́y qua nhiều câu chuyện thành công của NVHN trên thế giới. 

Ta nên ghi chú rằng từ ngữ "miền Nam Việt Nam" hoặc "VNCH" trong nhóm chữ "dân tộc miền Nam Việt Nam" hoặc "dân tộc VNCH" nói đến nguồn gốc của dân tộc đó. Nó không nói đến vùng địa lý của VNCH trước 1975, tức là vùng miền Nam của nước Việt Nam. Một đặc tính quan trọng của dân tộc VNCH là chống cộng. Không những đặc tính này có tính chất chính trị, mà còn văn hóa và xã hội. Vì vậy, nó là một tính chất đặc biệt phân biệt dân tộc VNCH với dân tộc của người Việt khác, thí dụ như người Việt thiểu số theo cộng sản. 

Do đó, hầu như bất cứ người chống cộng gốc Việt nào cũng đều là thành phần của dân tộc VNCH. (Ta phải nói "hầu như" vì chống cộng không phải là điều kiện duy nhất để là thành phần của dân tộc VNCH.) Vì vậy, dân tộc VNCH không chỉ gồm có những người chống cộng từng sống tại miền Nam Việt Nam trước 30 tháng 4, 1975. Nó có thể gồm có dân Việt chống cộng từng sống ở miền Bắc Việt Nam dưới kiểm soát cộng sản. Ngoài ra, như thảo luận ở trên, ít nhất 3 triệu người chống cộng trong dân tộc VNCH sinh sống ngoài Việt Nam. Do đó, dân số hiện tại của dân tộc VNCH vượt quá xa dân số nguyên thủy ước tính 13 triệu người. 

Dân số hiện tại của dân tộc VNCH là bao nhiêu?

Như đề cập ở trên, một đặc điểm chính trị, văn hóa, và xã hội của đa số người miền Nam Việt Nam trước 1975 là chống cộng. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay, vì sự đàn áp đặt lên dân do nhóm thiểu số cai trị cộng sản, khó cho dân tự nhận mình là chống cộng hoặc trung dung. Tuy ta không biết chính xác bao nhiêu người trong dân tộc VNCH sống tại Việt Nam, ta có thể ước lượng là rất cao vì sự bất mãn ngày càng gia tăng của dân đối với nhóm cầm quyền cai trị. Càng ngày càng có nhiều đảng viên ĐCSVN bỏ đảng và trở thành chống cộng mạnh mẽ. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu dân số của dân tộc VNCH lên đến 80 - 85 triệu người.

Ta nên ghi chú rằng nước (Nam) Việt Nam và dân tộc VNCH khác nhau. Khi ta nói đến nước (Nam) Việt Nam, ta nói đến một thực thể địa chính đã từng là một quốc gia có chủ quyền/ quyền tối cao nhưng bây giờ đang bị cộng sản chiếm đóng. Khi ta nói đến dân tộc VNCH, ta nói đến người dân có đặc tính chính là chống cộng. Những (cựu) công dân của nước (Nam) Việt Nam sống trong vòng biên giới cố định trước đó của quốc gia (Nam) Việt Nam. Ngược lại, dân chúng trong dân tộc VNCH gồm có những người sống trong vòng biên giới của Quốc Gia Việt Nam trước đó, gồm cả Bắc lẫn Nam, và NVHN. Vì vậy, có một phần trùng khớp giữa dân của nước (Nam) Việt Nam và dân của dân tộc VNCH. Phần không trùng khớp có dân số lớn hơn, gồm có người Bắc chống cộng và NVHN. Đặc biệt, sức mạnh của NVHN, kể cả chính trị và tài chánh, rất to tát. 

Tóm lại, miền Nam Việt Nam hoặc VNCH không bị tiêu hủy vào ngày 30 tháng 4, năm 1975. Ngược lại, nó còn sống khỏe mạnh và phồn vinh là một dân tộc và một nước. Tuy nhiên, có người sẽ hỏi, "Thì đã sao? Có ích gì khi chỉ hiện hữu là một cộng đồng phân tán hoặc một cộng đồng bị đàn áp và không có quyền lực cụ thể tối cao, quyền thế, kiểm soát, và công nhận bởi các nước hoặc quốc gia có chủ quyền khác?" Chúng ta sẽ xem xét vấn đề này trong các đoạn kế tiếp.

B. Việt Nam cộng sản là một quốc gia hoặc một quốc gia - dân tộc bất hợp pháp vì nó không đại diện dân và trên thực tế là một quốc gia tân thuộc địa dưới sự kiểm soát của Tàu cộng.

Quốc gia - dân tộc (nation-state), đôi khi viết không có gạch nối, được định nghĩa hạn hẹp hơn dân tộc. "Một quốc gia dân tộc là một vùng địa lý có thể được xác nhận là có sự hợp pháp chính trị do việc là một dân tộc có chủ quyền. Một quốc gia là một thực thể chính trị và địa chính, trong khi một dân tộc là một thực thể văn hóa và chủng tộc. Từ ngữ 'quốc gia dân tộc' ngụ ý hai thực thể đó trùng vào nhau, nhưng sự thành lập 'quốc gia dân tộc' có thể xảy ra tại nhiều thời điểm khác nhau ở các phần khác nhau trên thế giới" (Wikipedia 2015e; 2015f). 

Một quốc gia - dân tộc có thể có nhiều đặc tính, chẳng hạn như một lãnh thổ được xác định theo địa lý rõ ràng, quyền tối cao trên lãnh thổ của nó, sự hiện hữu của một chính quyền, biên giới cố định, một chính quyền xưng độc quyền ép buộc trên dân, nhận thức quốc gia, sự tuân lệnh và trung thành của dân cư trú (Opello and Rosow 2004, 3). Dưới định nghĩa này, đa số các nước hiện nay trên thế giới đều được coi là quốc gia - dân tộc. 

Nước (Nam) Việt Nam không phải là một quốc gia - dân tộc. Nó là một nước bị chiếm đóng và vì vậy nó không có một chính quyền của riêng nó. Dân tộc VNCH không phải là một quốc gia - dân tộc vì nó không có một lãnh thổ được xác định, quyền tối cao trên lãnh thổ nó, và một chính quyền. Dân tộc VNCH là một trong nhiều dân tộc không quốc gia trên thế giới, như dân tộc người Kurd, người Duy Ngô Nhĩ (Uyghur), người Tây Tạng, và ngay cả người Hồng Kông. Những dân tộc không quốc gia này có thể sẽ trở thành quốc gia có chủ quyền trong tương lai. Lịch sử cho thấy nhiều dân tộc không quốc gia trở thành quốc gia có chủ quyền, thí dụ như Bosnia và Herzegovina, Serbia (Xem, thí dụ như, Wikipedia 2015h).

Câu hỏi là Việt Nam cộng sản có thực sự là quốc gia - dân tộc hay không. Câu trả lời ngắn gọn là "Không." Việt Nam cộng sản có thể có sự hợp pháp ngoại giao qua lừa đảo, nhưng hợp pháp ngoại giao không có nghĩa là hợp pháp trong nước. Hợp pháp ngoại giao chỉ hàm ý hợp pháp được cảm nhận bởi các quốc gia dân tộc khác. Một chính quyền, như phe cộng sản Việt Nam, bằng bạo tàn và lừa đảo, có thể đạt được sự hợp pháp ngoại giao nhưng không nhất thiết hợp pháp trong nước bởi vì nó không đại diện dân. Như thảo luận ở trên, Iraq dưới Saddam Hussein là một thí dụ của quốc gia - dân tộc bất hợp pháp. Cộng đồng thế giới can thiệp để thay đổi chế độ và cho phép dân Iraq tự do lựa chọn chính quyền của họ. Việt Nam cộng sản là một quốc gia bất hợp pháp vì chính quyền của nó bất hợp pháp và không đại diện dân. Trên thực tế, Việt Nam cộng sản là một quốc gia tân thuộc địa (neo-colonial) dưới sự kiểm soát của Tàu cộng. 

Từ ngữ "quốc gia thuộc địa" thường được dùng để mô tả một nước trở thành thuộc địa của một nước mạnh hơn, thường là một đế quốc, như Pháp, Anh, hoặc Tây ban nha trong thế kỷ 18 và 19. Từ ngữ "quốc gia tân thuộc địa" nói đến một hình thức mới của quốc gia thuộc địa khi quốc gia thuộc địa có "tất cả những hình thức bên ngoài của quyền tối cao thế giới" nhưng "hệ thống kinh tế và do đó chính sách chính trị được điều động từ bên ngoài" (Nkrumah 1965). Các học gỉả Marxist mô tả thể chế tân thuộc địa là "khí cụ chính yếu của chủ nghĩa đế quốc" và là "dạng tệ hại nhất của chủ nghĩa đế quốc" (sđd.). Trong Chiến tranh Việt Nam, miền Nam Việt Nam thường bị mô tả bởi các học giả Marxist là một quốc gia tân thuộc địa dưới sự kiểm soát của Hoa Kỳ (sđd.). 

Oái oăm thay, tất cả các đặc tính dùng bởi học giả Marxist để mô tả một quốc gia tân thuộc địa bây giờ lại áp dụng y hệt cho Việt Nam hiện nay mà chủ là Tàu cộng. Trước hết, "những kẻ cai trị các quốc gia tân thuộc địa lấy quyền thế cai trị không phải từ ý dân mà từ sự hỗ trợ họ có được từ các ông chủ tân thuộc địa của họ" (sđd.). Chúng ta đã biết rõ các lãnh tụ ĐCSVN là nô lệ của Tàu cộng từ cuộc họp thượng đỉnh bí mật tại Thành Đô, Tứ Xuyên, vào tháng 9, 1990 khi các lãnh tụ Tàu cộng và Việt cộng "viết thông báo thỏa thuận bí mật về Cambodia và giải quyết trên nguyên tắc các cản trở cho việc bình thường hóa quan hệ" (Womack 2006, 208). Thứ nhì, viện trợ từ các ông chủ tân thuộc địa "chỉ là tín dụng tuần hoàn, được trả bởi ông chủ tân thuộc địa, cho qua quốc gia tân thuộc địa và trở lại ông chủ tân thuộc địa dưới dạng lợi tức gia tăng" (sđd.). Trong Chiến tranh Việt Nam, các học gỉả Marxist thường mô tả loại viện trợ này là "viện trợ quân sự." Ngày nay, đối diện với sự ổn định địa chính, loại viện trợ lộ liễu đó không khả thi. Vì vậy, nó phải được hóa trang dưới dạng khác như tín dụng tài chánh. Đây chính là cá́i mà Tàu cộng đang làm với Việt cộng. Mục tiêu của viện trợ hoặc tín dụng là tạo ra sự lệ thuộc của quốc gia tân thuộc địa vào ông chủ tân thuộc địa của nó. Sự lệ thuộc của Việt Nam vào Tàu cộng đã đến mức nguy hiểm (VOV 2015). Thứ ba, các dụng cụ khác hơn kinh tế như các khí cụ văn hóa có thể được dùng trong các theo đuổi tân thuộc địa. Thí dụ gồm có ngôn ngữ, giáo dục, tôn giáo, và các dạng quyền lực mềm (soft power) khác (Molag 2014). Viện Khổng Tử, tiêu biểu cho quyền lực mềm của Tàu, đã được thiết lập trên khắp thế giới. Vào cuối năm 2013, 440 viện được thành lập. Tại Việt Nam, một viện Khổng Tử khai trương vào tháng chạp 2014 tại Hà Nội và được quản lý bởi Đại Học Hà Nội của Việt Nam và Đại Học Sư Phạm Quảng Tây của Tàu. Có vẻ là Viện Khổng Tử tại Việt Nam là một thí dụ cho khí cụ quyền lực mềm của Tàu tân thuộc địa để theo đuổi các mục tiêu tân thuộc địa. 

Cuối cùng, Việt Nam cộng sản không những là một quốc gia - dân tộc bất hợp pháp, nó còn là một quốc gia không có dân tộc. Nói cách khác, nó hiện hữu là một quốc gia nhưng không có dân tộc hỗ trợ hoặc tự nguyện chấp nhận các mục tiêu và lý tưởng đặt ra bởi quốc gia, đó là xã hội chủ nghĩa và/ hoặc chủ nghĩa cộng sản. Thực ra, dân tộc đáng kể duy nhất hiện hữu trong và ra ngoài biên giới của Việt Nam cộng sản là dân tộc VNCH, như mô tả ở trên, tiêu biểu cho tất cả những gì trái ngược lại với xã hội chủ nghĩa và/ hoặc chủ nghĩa cộng sản. Ta phải hiểu nhóm chữ "không có dân tộc" ở đây có nghĩa là "không có dân tộc được xác định hoặc đồng đều" đối với các mục tiêu tổng quát của quốc gia đặt ra bởi chính quyền quốc gia. Nói cách khác, người dân tạo nên "quốc gia không có dân tộc" có thể không được xác định rõ ràng, hoặc có các niềm tin và lý tưởng khác hẳn với các niềm tin và lý tưởng đặt ra do chính quyền quốc gia, hoặc đến từ nhiều gốc và có nhiều đặc tính căn bản khác nhau kể cả ngôn ngữ, niềm tin chính trị và/hoặc tôn giáo, các khía cạnh chủng tộc và/hoặc lịch sử. Có nhiều quốc gia không có dân tộc khác trên thế giới. Thí dụ cho những quốc gia này gồm có Iraq (Black 2014), Tàu cộng (Fitzgerald 1998, 57), cộng hòa Áo (Morrissey 2012), và Mã lai Á (Stockwell 2005, 210).

Một quốc gia không có dân tộc vẫn có thể tồn tại nếu nó thỏa mãn vài điều kiện căn bản. Một điều kiện quan trọng là đa số dân tộc trong quốc gia đó hoặc các dân tộc khác nhau trong quốc gia đó đồng ý sống hòa bình phù hợp với mục tiêu đặt ra bởi chính quyền quốc gia. Nếu có vi phạm điều kiện này, quốc gia đó sẽ sụp đổ. Việt Nam cộng sản là một thí dụ của quốc gia như vậy bởi vì những mục tiêu về xã hội chủ nghĩa hoặc cộng sản tương phản với ý muốn của đa số dân. Ngoài ra, nhiều thực hành cộng sản đi ngược lại với những truyền thống dân Việt. Vài thí dụ cho các thực hành này là sự sùng bái Hồ Chí Minh, việc dựng tượng Lê-Nin, sự nhượng bộ hèn nhát với Tàu cộng về Biển Đông, và việc dùng cờ một thành phố Tàu làm quốc kỳ.

C. Nước (Nam) Việt Nam hoặc dân tộc VNCH sẽ trở thành quốc gia có chủ quyền trên toàn thể Việt Nam trong tương lai gần khi chế độ cộng sản sụp đổ.

Quốc gia hoặc dân tộc có thể phát huy hoặc đổ ngã. Quyền tối cao của một quốc gia hoặc một quốc gia - dân tộc có thể bị thách đố bởi nhiều lực: thay đổi trong chiến cụ, toàn cầu hóa chủ nghĩa tư bản, rạn nứt nhận thức quốc gia, và sự nổi lên của các hệ thống truyền thông cao cấp (Opello and Rosow 2004, 245). Nhiều nhóm trong một quốc gia - dân tộc "tự tưởng tượng mình là một dân tộc" và "tìm danh xưng quốc gia"(sđd., 257). Những người tị nạn chính trị hoặc kinh tế thì "chín mùi cho các kêu gọi cho nhận dạng chính trị khác đối với nhận dạng chính trị của quốc gia - dân tộc" (sđd., 259). Ngoài ra, sự thịnh hành của kỹ thuật truyền thông cao cấp, như Internet và truyền thông xã hội, "khiến cho quốc gia khó kiểm soát các lưu thông tin tức bên trong và đi qua biên giới nó" và "đang nảy nở sự gắn bó công chúng làm đe dọa quyền tối cao của các quốc gia dựa vào lãnh thổ" (sđd., 263). Dân tộc VNCH theo đúng y hệt khuôn mẫu này. Nhiều dân sống tại Việt Nam là những người tị nạn chính trị (thí dụ, những người đấu tranh dân chủ) hoặc kinh tế (thí dụ, sinh viên ra trường không có việc, dân oan) bị mắc kẹt trong nước. NVHN gồm có đa số là người tị nạn chính trị. Cùng với nhau, họ đồng nhất đấu tranh cho tự do và dân chủ cho Việt Nam qua mọi hình thức, kể cả và nhất là Internet.

Davies (2011, 732) đưa ra lý thuyết rằng có ít nhất năm cơ chế đóng góp vào cái chết của một quốc gia: sụp đổ hướng nội (implosion), xâm chiếm, liên kết, phá sản, và "tử vong lúc sơ sinh." Một thí dụ của sụp đổ hướng nội là Liên Sô. Trong tiến trình này, "một khoảng trống được tạo ra, các phần cấu thành bị tách rời, và cái toàn thể bị tiêu hủy" (sđd., 732). Thông thường, cái chết của một quốc gia có chủ quyền dẫn đến sự sinh ra hoặc tái sinh các quốc gia độc lập mới. "Mười lăm cộng hòa Sô Viết lệ thuộc được biến thành mười lăm quốc gia độc lập" (sđd., 725). 

Gellner (2008, 6) tin rằng dân tộc và quốc gia "được sắp đặt cho nhau" nhưng "trước khi chúng có thể trở thành cho nhau, mỗi cái phải nổi lên, và sự nổi lên của chúng thì độc lập và ngẫu nhiên." Những học gỉả về dân tộc vững tin rằng quốc gia và dân tộc phù hợp nhau: cho mỗi quốc gia nên có một dân tộc và cho mỗi dân tộc nên có một quốc gia (Gellner 2008, 128). Ngoài ra, dân tộc được hình thành không phải chỉ vì lý do hiện hữu. Luôn luôn có một móc nối tới "quyền tối cao quốc gia - dân tộc vả lãnh thổ quốc gia trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai hy vọng" (Donnan and Wilson 2001, 6). Vì vậy, khi một dân tộc phát triển càng lúc càng mạnh mẽ, nó bắt buộc phải nổi lên là một quốc gia có chủ quyền, nhất là khi nó thay thế một quốc gia chủ quyền đang sụp đổ.

Dân tộc VNCH và quốc gia Việt cộng bất hợp pháp đưa ra một tình cảnh hay cho sự thay thế, trong tương lai, một quốc gia có chủ quyền thối nát bằng một dân tộc lành mạnh. Thí dụ về Liên Sô thảo luận ở trên có thể giúp giải thích tình cảnh này. Có nhiều lý do cho sự sụp đổ của Liên Sô, nhưng cái thiết yếu của những lý do này thì không phức tạp. "Hệ thống Sô Viết được xây dựng trên lực cực độ và lừa đảo cực độ. Hầu như mọi việc mà Lenin và những người theo Lenin làm đều được kèm theo bởi giết chóc; hầu như những gì họ nói đều dựa vào các lý thuyết nửa mùa, hoàn toàn thiếu lương thiện và là những dối trá trắng trợn và to tát" (Davies 2011, 725). Chính hai cực điểm này đưa đến cái chết của Liên Sô bằng sụp đổ hướng nội.

Như Liên Sô, quốc gia Việt cộng bất hợp pháp hiện nay không thể tồn tại vì nó cũng được xây dựng trên lực cực độ và lừa đảo cực độ. Lực cực độ và lừa đảo cực độ phạm bởi Việt cộng đã được biết rõ và ghi nhận rõ ràng. Thí dụ gồm có cuộc Cải cách ruộng đất vào thập niên 1950 ở Bắc Việt, vụ Nhân Văn Giai Phẩm, các lừa đảo do Hồ Chí Minh và đồng chí, những hành động khủng bố gây trên dân miền Nam trong cuộc chiến, sự đối đãi tàn bạo với binh lính và nhân viên chính phủ của VNCH sau cuộc chiến, sự đàn áp những nhà đấu tranh dân chủ hiện nay, và các bằng chứng khác. Ngoài ra, Việt cộng còn gây tội ác tệ hại hơn cộng sản Sô Viết, như bán đất cho Tàu cộng, dung dưỡng buôn người, cướp bóc dân, phá hủy văn hóa và tài nguyên đất nước. Cái có vẻ là quyền lực của nhóm cầm quyền cộng sản chỉ là cái che giấu cho một cốt lõi thối nát. ĐCSVN đã bị suy đồi qua nhiều năm vì nhiều lý do, kể cả tranh giành quyền lực, tham nhũng, lừa đảo, tham lam, bất tài, và quản trị sai quấy.

Trong khi sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại Việt Nam thì không tránh được, nước (Nam) Việt Nam và dân tộc VNCH sẽ khiến cho sự sụp đổ này xảy ra sớm hơn. Dân tộc VNCH đang phát triển càng ngày càng mạnh mẽ như cho thấy qua sự đoàn kết giữa người Việt trong và ngoài nước, các ảnh hưởng chính trị và tài chánh gia tăng của NVHN, và những hoạt động gia tăng trong cuộc đấu tranh cho nhân quyền, tự do và dân chủ bởi các nhà đấu tranh nhân quyền và dân chủ. Dân tộc VNCH bây giờ sẵn sàng "kiếm danh xưng quốc gia" và "chín mùi cho các kêu gọi cho nhận thức chính trị khác" nhờ sự gia tăng dân số của người tị nạn chính trị và kinh tế, NVHN, và sự thịnh hành của Internet và các phương tiện truyền thông xã hội, theo các tiêu chuẩn đưa ra bởi Opello and Rosow (2004, 245, 257, 259). Ngoài ra, sức đề kháng tiềm tàng của nước (Nam) Việt Nam bị chiếm đóng sẽ giúp đẩy mạnh dân tộc VNCH nổi lên thành một quốc gia có chủ quyền dẫn đến cái chết bằng sụp đổ hướng nội của chế độ cộng sản Việt Nam. 

Ngay cả nếu quốc gia Việt Nam cộng sản bất hợp pháp không sụp đổ ngay, nước (Nam) Việt Nam và/ hoặc dân tộc VNCH vẫn có thể "tách ra khỏi quốc gia để gia nhập xã hội thế giới qua ly khai hoặc tái chiếm đất cũ (irredentism)" (Kaya 2012, 67). Thực ra, "các nhóm dân tộc phân quốc gia (sub-state) đang hoạt động trong một bối cảnh quốc tế" (sđd., 93). 'Tác nhân quốc tế' nên được định nghĩa rộng rãi để bao gồm "quốc gia và đủ các loại tác nhân phi quốc gia (kể cả các nhóm phân quốc gia và những người sống xa quê hương)" (sđd.). Với sự mở mang gia tăng của các xã hội dân sự và NVHN, tiêu biểu cho các nhóm phân quốc gia và người xa quê hương, và sự công nhận quốc tế về các nỗ lực của các nhà tranh đấu dân chủ như văn sĩ Nguyễn Xuân Nghĩa (Dân 2015) và blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mạng 2015), việc tạo thành một quốc gia cho dân tộc VNCH, là một quốc gia thay thế cho Việt Nam cộng sản hiện nay hoặc là một quốc gia mới bằng ly khai hoặc tái chiếm đất cũ, đang trở thành càng ngày càng có thật.

D. Kết Luận

Sau 1975, VNCH vẫn còn sống là một nước bị cộng sản chiếm đóng. Quan trọng hơn, VNCH là một dân tộc phồn huy với một dân số to tát của những người chống cộng sống tại Việt Nam, cả Nam và Bắc, và hải ngoại.

Sự sụp đổ của quốc gia Việt cộng bất hợp pháp thì không tránh được. Nó sẽ được thay thế bởi dân tộc VNCH khỏe mạnh và đầy sức sống, hỗ trợ bởi sức đề kháng tiềm tàng của nước (Nam) Việt Nam bị chiếm đóng. Cuộc chuyển tiếp sẽ đưa đến quốc gia có chủ quyền VNCH. Tên của chính thể có thể thay đổi theo ý dân, nhưng đặc tính thiết yếu của nó vẫn không thay đổi: chống cộng.

Tuy nhiên, ngay cả trong cảnh yên bình nhất, sự sụp đổ của chế độ cộng sản phải được khởi đầu bằng hành động của người dân. Người dân phải đứng lên và đòi hỏi lật đổ chế độ cộng sản. Đặc biệt, thế hệ trẻ phải ý thức rằng họ có bổn phận bảo vệ tổ quốc. Sự lựa chọn duy nhất là lật đổ chế độ cộng sản, phục hồi chính nghĩa của VNCH, và sống phù hợp với tinh thần bất khuất của dân Việt.

19/07/2015


_________________________________________

Tài Liệu Tham Khảo:

1. Anderson, Benedict. 2006. Imagined Communities. Reflections on the Origin and Spread of Nationalism. Revised Edition. Verso, New York, U.S.A.

2. Baycroft, Timothy and Hewitson, Mark (Eds.). 2006. What is a Nation? Europe 1789-1914. Oxford University Press, New York, U.S.A.

3. Black, Eric. 2014. Iraq is a state but not a nation; Kurdistan is the opposite. 16-6-2014. https://www.minnpost.com/eric-black-ink/2014/06/iraq-state-not-nation-kurdistan-opposite (truy cập 16-7-2015).

4. Cao-Đắc, Tuấn. 2015. Xâm lăng, quốc gia, mất nước, và ngày quốc hận. 10-6-2015. http://danlambaovn.blogspot.com/2015/06/xam-lang-quoc-gia-mat-nuoc-va-ngay-quoc.html (truy cập 16-7-2015).

5. _________. 2014. Ý nghĩa lá cờ vàng của người Việt hải ngoại. December 23, 2014. http://danlambaovn.blogspot.com/2014/12/y-nghia-la-co-vang-cua-nguoi-viet-hai_23.html (truy cập 31-5-2015).

6. Connor, Walker.1978. A Nation is a Nation, is a State, is an Ethnic Group, is a ..., (pp. 36-46), in Nationalism, 1994, edited by John Hutchinson and Anthony D. Smith, Oxford University Press. Oxford, U.K.

7. Council of Europe. 2005. The concept of “nation”. December 13, 2005. 

8. Dân Làm Báo. 2015. Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa được Hội Nhà văn Na Uy trao giải thưởng Tự do Ngôn luận. 22-3-2015. http://danlambaovn.blogspot.com/2015/03/nha-van-nguyen-xuan-nghia-uoc-hoi-nha.html (truy cập 18-7-2015).

9. Davies, Norman. 2011. Vanished Kingdoms. The Rise and Fall of States and Nations. Penguin Group. New York, NY, U.S.A.

10. Donnan, Hastings and Wilson, Thomas M. 2001. Borders – Frontiers of Identity, Nation and State. Berg, U.K.

11. Duiker, William. 1996. The Communist Road To Power In Vietnam.Second Edition. Westview Press, Boulder, Colorado, U.S.A.

12. Fall, Bernard B. 1967. The Two Viet-Nams: A political and Military Analysis. Second Revised Edition, Frederick A. Praeger, New York, U.S.A.

13. Fearon, James D. 2006. Civil war definition transcends politics. April 10, 2006. http://fsi.stanford.edu/news/civil_war_definition_transcends_politics_20060410 (truy cập 18-7-2015).

14. Fitzgerald, John. 1998. Awakening China: Politics, Culture, and Class in the Nationalist Revolution. Stanford University Press, Stanford, California, U.S.A.

15. Flaherty, Jane. 2006. Review the book Nicholas Onuf and Peter Onuf, Nations, Markets, and War: Modern History and the American Civil War. Charlottesville, VA: University of Virginia Press, 2006. 10-2006. 

16. Gellner, Ernest. 2008. Nations and Nationalism. Second Edition. Cornell Paperbacks. Cornell University Press. Ithaca, New York, U.S.A.

17. Greefield, Liah. 1992. Types of European Nationalism (pp. 165-171), in Nationalism, 1994, edited by John Hutchinson and Anthony D. Smith, Oxford University Press. Oxford, U.K.

18. Hobsbawm, E.J. 1990. Nations and Nationalism since 1780. Programme, Myth, Reality. Cambridge University Press, Cambridge, U.K.

19. Hutchinson, John and Smith, Anthony D. (Eds.). 1994. Nationalism. Oxford University Press. Oxford, U.K.

20. ICRC. 2012. Internal conflicts or other situations of violence – what is the difference for victims? 12-10-2012. 

21. Joes, Anthony James. 2001. The War for South Vietnam, 1954-1975. Praeger Publishers, Connecticut, U.S.A.

22. Joseph, Alex. 2008. Teaching the War: What the Vietnamese Government Wants Students to Learn About the American-Vietnam War. ISP Collection. Paper 593.

23. Karnow, Stanley. 1997. Vietnam: A History, Second Edition, Penguin Books, New York, U.S.A

24. Katzman, Kenneth. 2005. Iraq: U.S. Regime Change Efforts and Post-Saddam Governance. Congressional Research Service, The Library of Congress. Updated January 28, 2005. http://www.law.umaryland.edu/marshall/crsreports/crsdocuments/RL3133901282005.pdf (truy cập 30-5-2015).

25. Kaya, Zeynep N. 2012. Maps Into Nations: Kurdistan, Kurdish Nationalism and International Society. Ph. D. thesis, London School of Economics and Political Science. 2012. http://etheses.lse.ac.uk/645/1/Zeynep_Maps_into_Nations.pdf (truy cập 18-7-2015).

26. Krasner D. Stephen. 1999. Sovereignty – Organized Hypocrisy. Princeton University Press, New Jersey, U.S.A.

27. Mạng Lưới Blogger Việt Nam. 2015. Thành viên Mạng Lưới Blogger Việt Nam - Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được Civil Rights Defenders trao giải thưởng “Người bảo vệ Nhân quyền của năm”. 11-4-2015. 

28. Molag, Trevor. 2014. Neo-Colonialism in the Modern Age. January 19, 2014. 

29. Native Amerian Nations. Unknown date. The Cherokee Nation of Indians. Unknown date. http://www.nanations.com/cherokee_nation.htm (truy cập 1-6-2015).

30. Nkrumah, Kwame. 1965. Neo-Colonialism, the Last Stage of Imperialism

31. Opello, Walter C., Jr. and Rosow, Stephen J. 2004. Nation-State and Global Order. A Historical Introduction to Contemporary Politics. Lynne Rienner Publishers, Boulder, Colorado, U.S.A.

32. The Economist. 2010. Defining what makes a country - In quite a state. 8-4-2010. http://www.economist.com/node/15868439 (truy cập 29-5-2015).

33. MacFarquahr, Neil. 2006. Saddam Hussein, Defiant Dictator Who Ruled Iraq With Violence and Fear, Dies. 30-12-2006. http://www.nytimes.com/2006/12/30/world/middleeast/30saddam.html?pagewanted=all&_r=0 (truy cập 17-6-2015).

34. Morrissey, Jill. 2012. The Republic of Austria: A State Without a Nation. Master's thesis, presented to The Faculty of the Graduate School of Arts and Sciences, Brandeis University. May 2012. https://bir.brandeis.edu/bitstream/handle/10192/82/Final%20Thesis.pdf?sequence=1 (truy cập 17-7-2015).

35. Rosenberg, Matt. Không rõ ngày. Country, State, and Nation. Không rõ ngày. 

36. Sarkees, Meredith Reid. Unknown date. The COW Typology of War: Defining and Categorizing Wars (Version 4 of the Data). Unknown date. 

37. Stockwell, Tony. 2005. Forging Malaysia and Singapore: Colonialism, Decolonization, and Nation-Building. Chapter Eight in "Nation Building: Five Southeast Asian Histories," edited by Gungwu Wang, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore.

38. Truong Nhu Tang. 1986. A Vietcong Memoir. With David Chanoff and Doan Van Toai. Vintage Books, New York, U.S.A.

39. VOV. 2015. Economist warns of Vietnam’s over dependence on China. 5-3-2015. http://english.vov.vn/Economy/Trade/Economist-warns-of-Vietnams-over-dependence-on-China/291752.vov (truy cập 17-7-2015).

40. Weber, Max. 1948. The Nation (pp. 21-25) in Nationalism, 1994, edited by John Hutchinson and Anthony D. Smith, Oxford University Press. Oxford, U.K.

41. Wikipedia. 2015a. Country. 9-5-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/Country (truy cập 29-5-2015).

42. _________. 2015b. List of states with limited recognition. 28-5-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_states_with_limited_recognition (truy cập 29-5-2015).

43. _________. 2015c. Sovereign state. 28-5-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/Sovereign_state (truy cập 29-5-2015).

44. _________. 2015d. Nation. 9-5-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/Nation (truy cập 29-5-2015).

45. _________. 2015e. Nation state. 20-5-2015. http://en.wikipedia.org/wiki/Nation_state (truy cập 29-5-2015).

46. _________. 2015f. Quốc gia dân tộc. 7-3-2015. 

46. _________. 2015g. Anschluss. 22-6-2015. 

48. _________. 2015h. Stateless nation. 13-7-2015. https://en.wikipedia.org/wiki/Stateless_nation (truy cập 16-7-2015).

49. _________. 2015i. Civil war. 11-7-2015. https://en.wikipedia.org/wiki/Civil_war (truy cập 16-7-2015).

50. Womack, Brantly. 2006. China and Vietnam: The Politics of Asymmetry. Cambridge University Press, Cambridge, U.K.

© 2015 Cao-Đắc Tuấn


Bình Luận

Thời Sự

Chuyên đề

 
http://danlambaovn.blogspot.com/search?max-results=50
Copyright © 2014 Dân Làm Báo