Gs. Nguyễn Văn Tuấn - Khoảng một năm trước, Chính phủ ban hành Quyết định thành lập Ban chỉ
đạo (BCĐ) để tham mưu cho Thủ tướng về việc xây dựng các trường “đại
học xuất sắc”. Theo lộ trình này, đến năm 2020 (tức chỉ 8 năm nữa), Việt
Nam sẽ có 5 đại học “trình độ quốc tế”. Nghiên cứu khoa học là một
thành tố rất quan trọng để đại học có tên trên trường quốc tế. Nhân dịp 1
năm sau ngày ban hành quyết định, tôi thử kiểm tra xem năng lực khoa
học của Việt Nam và so sánh với Thái Lan. Phần đầu (bài này) sẽ bàn về
số ấn phẩm khoa học trong 10 năm (2002 đến 2011).
Gần 2 năm trước, tôi có viết một bài so sánh giáo dục đại học Việt Nam và Thái Lan qua vài con số cơ bản. Bài này thậm chí còn được các bạn Thái Lan (thuộc trường AIT) cho Google dịch.
Đọc qua bản dịch đó, tôi thấy … rất vui. Không có và cũng không cần
bình luận! Nhưng điều đó chứng tỏ họ -- các bạn Thái Lan – cũng theo dõi
chúng ta. Thật ra, người Thái Lan vẫn ngấm ngầm theo dõi phát triển của
Việt Nam, từ chính trị, kinh tế, đến giáo dục. Vậy trong bài này, tôi
sẽ so sánh xem trong 10 năm qua, hai nước đã phát triển ra sao trong
lĩnh vực khoa học.
Tốc độ tăng trưởng
Mười năm trước (2002), số ấn phẩm khoa học của Việt Nam trên các tập
san quốc tế (trong hệ thống ISI) là 362 bài. Trong cùng thời gian, Thái
Lan công bố được 1705 bài, cao hơn ta gấp 4.7 lần. Mười năm sau (2011),
Việt Nam công bố được 1389 bài, tăng gấp 3.8 lần so với năm 2002. Nhưng
10 năm sau, Thái Lan công bố được 5721 bài, hơn Việt Nam 4.1 lần. Tuy
nhiên, về con số tuyệt đối, khoảng cách giữa Thái Lan và Việt Nam càng
ngày càng lớn (xem Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Số ấn phẩm khoa học từ Việt Nam và Thái Lan 2002-2011
Tính trung bình, tốc độ tăng trưởng (về số ấn phẩm khoa học) của Việt Nam là 15.2%, tức tương đương với tỉ lệ của Thái Lan (15.1%). Nhưng vì Thái Lan xuất phát từ một cơ sở cao hơn ta gấp 4 lần, nên trong những năm sau Thái Lan vẫn còn cao hơn ta. Thật ra, có thể dùng phương trình sau đây để dự đoán số ấn phẩm khoa học cho Việt Nam và Thái Lan:
Việt Nam: VN(t) = exp(5.9632 + 0.1413*t)
Thái Lan: TL(t) = exp(7.4546 + 0.1407*t)
Trong đó, t là thời gian. t = năm–2002. Hệ số R2 của hai phương trình này là 0.987! Với hệ số đó, chúng ta có chút tự tin dự đoán số ấn phẩm khoa học cho năm 2012:
Việt Nam = exp(5.9632 + 0.1413*10) = 1600
Thái Lan = exp(7.4546 + 0.1407*10) = 7055
Tương tự, chúng ta có thể dự đoán số ấn phẩm khoa học cho Việt Nam và Thái Lan từ 2012 đến 2020 như sau:
Năm |
Việt Nam
|
Thái Lan
|
2012 |
1600
|
7055
|
2013 |
1840
|
8121
|
2014 |
2119
|
9350
|
2015 |
2440
|
10760
|
2016 |
2811
|
12386
|
2017 |
3237
|
14258
|
2018 |
3729
|
16412
|
2019 |
4295
|
18892
|
2020 |
4947
|
21746
|
Nói cách khác, nếu không có gì thay đổi và với tỉ lệ tăng trưởng như
hiện nay, đến năm 2020, tổng số ấn phẩm khoa học của Việt Nam là khoảng
5000 bài, tức bằng số ấn phẩm khoa học của Thái Lan vào năm 2009.
Phân tích theo ngành
Trong thời gian 2002-2011, Thái Lan công bố được 35588 bài báo khoa
học trên các tập trong hệ thống ISI, cao gấp 4.5 lần so với con số của
Việt Nam. Nhưng tỉ số này thay đổi theo lĩnh vực nghiên cứu. Trong tất
cả so sánh, chỉ có toán học là Thái Lan kém hơn Việt Nam, còn lại tất cả
các ngành khác, Thái Lan đều hơn Việt Nam. Ngay cả vật lí học, số ấn
phẩm của Thái Lan cao hơn Việt Nam 50%.
Lĩnh vực |
Việt Nam
|
Thái Lan
|
Tỉ số TL/VN
|
Y học lâm sàng |
1175
|
7425
|
6.32
|
Vi sinh học |
293
|
1610
|
5.49
|
Vật lí |
998
|
1520
|
1.52
|
Thực vật học |
948
|
3571
|
3.76
|
Môi sinh |
366
|
1370
|
3.74
|
Hoá học |
573
|
4608
|
8.04
|
Miễn dịch học |
148
|
847
|
5.72
|
Kĩ thuật |
612
|
3150
|
5.14
|
Địa chất |
255
|
524
|
2.05
|
Nông học |
346
|
2000
|
5.78
|
Toán học |
787
|
499
|
0.64
|
KH xã hội |
374
|
1297
|
3.47
|
Sinh hoá |
182
|
1956
|
10.74
|
Sinh học phân tử |
94
|
668
|
7.10
|
KH vật liệu |
246
|
1688
|
6.86
|
Dược học |
118
|
1178
|
9.98
|
KH không gian |
36
|
109
|
3.02
|
KH máy tính |
141
|
717
|
5.10
|
Kinh tế |
88
|
286
|
3.25
|
Tâm thần |
34
|
143
|
4.20
|
Đa ngành |
13
|
499
|
38.38
|
Tổng cộng |
7850
|
35588
|
4.53
|
Nguồn: Số liệu trong bảng này được lấy từ cơ sở dữ liệu của Web of Science (Viện thông tin khoa học, Mĩ). Thời gian là từ 2002 đến 2011. Số liệu chỉ tính những bài báo “article” (tức là bài báo nguyên thuỷ), chứ không tính các bài tổng quan và abstract / proceeding.
Bảng trên đây còn cho thấy những lĩnh vực khoa học mà Thái Lan vượt
trội hơn hẳn Việt Nam. Chỉ riêng ngành sinh hoá, số ấn phẩm của Thái Lan
cao hơn Việt Nam gần 11 lần! Kế đến là dược học (10 lần), hoá học (8
lần), sinh học phân tử (7 lần). Tất cả những ngành này nói lên rằng khoa
học Thái Lan có vẻ “sophisticated” hơn Việt Nam, vì đó là những ngành
công nghệ cao. Ngay cả y học lâm sàng, số ấn phẩm khoa học của Thái Lan
vẫn cao hơn Việt Nam gấp 6 lần!
Những lĩnh vực nghiên cứu “mạnh” của Thái Lan và Việt Nam cũng khác
nhau. Trong thời gian 10 năm qua, số ấn phẩm y học lâm sàng của Thái Lan
chiếm 21% tổng số ấn phẩm khoa học. Các ngành mạnh khác của Thái Lan là
hoá học (tỉ trọng 12%), thực vật học (10%), và kĩ thuật (9%). Đối với
Việt Nam, các lĩnh vực nghiên cứu có vẻ tập trung vào 4 ngành chính là y
học lâm sàng (15%), thực vật học (12%), vật lí (13%), và toán học
(10%).
Nói tóm lại, trong 10 năm qua, số ấn phẩm khoa học của Việt Nam chỉ
bằng 22% con số của Thái Lan. Ngoài ra, trong những lĩnh vực khoa học
công nghệ cao hay tương đối cao, số ấn phẩm khoa học của Việt Nam chỉ
bằng 1/10 của Thái Lan. Tốc độ tăng trưởng về ấn phẩm khoa học của Việt
Nam và Thái Lan tương đương nhau (15%/năm), nhưng với tỉ lệ này, đến năm
2020 số ấn phẩm của Việt Nam chỉ bằng số ấn phẩm của Thái Lan năm 2009.
Cũng có thể nói Việt Nam ta theo sau họ khoảng 10 năm.
Trong bài sau, tôi sẽ phân tích khả năng biến ước vọng 2020 của Chính
phủ thành thực tế ra sao. Nhưng với những dữ liệu trình bày trên đây,
tôi đoán các bạn đọc cũng có thể đi đến kết luận cho riêng mình.