Tưởng Năng Tiến (Danlambao) - "Mỗi công dân Việt Nam, nếu cố gắng vượt qua sự sợ hãi và vô cảm thì chắc chắn sẽ chấn hưng được dân khí. Dân khí mạnh buộc kẻ ác phải chùn tay và phải cư xử đúng mực." - Võ Thị Hảo
Chinh nhân, lữ khách, người viễn xứ, kẻ tha hương, và những buổi sáng biệt ly “tiếng còi tàu như xé đôi lòng,” với những buổi chiều “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà,” cùng vô số những con thuyền không bến (đỗ) đều là những hình ảnh rất thường thấy trong thơ nhạc Việt Nam.
Óc tưởng tượng của người mình quả là phong phú, sự phong phú quá cỡ này hoàn toàn tương phản với nếp sống tẻ nhạt (và ru rú như gián ngày) của phần lớn chúng ta. Phải đợi đến 1891 người Pháp mới tìm giùm ra Đà Lạt, và qua năm 2009 người Anh mới khám phá ra Hang Sơn Đoòng thuộc quần thể hang động Phong Nha – Kẻ Bàng ở Quảng Bình.
Tuy chả dám đi đến đâu nhưng khi đã lỡ phải bước ra khỏi nhà là người mình lại hay than thở, cứ như là sắp chết đến nơi vậy:
“Cố hương” ở tận mãi chân trời hay góc biển nào mà xa tới “muôn trùng,” nghe dữ dằn quá vậy?
Trong cuốn Một Mảnh Tình Riêng, do nhà Văn Nghệ (VN) xuất bản năm 2000, Sơn Nam tâm sự: “Mẹ tôi đi làm dâu nơi xa nhà hàng năm mươi cây số đường giao thông hồi đầu thế kỷ khó khăn, vượt rừng qua hai con sông đầy sóng gió... Lâu năm lắm mẹ tôi với về quê thăm xứ một lần, tình trạng này tôi thử hư cấu, qua truyện ngắn ‘Gả Thiếp Về Rừng’...
Khoảng cách “năm mươi cây số” này đủ làm cho mấy thế hệ cô dâu kêu gào thảm thiết:
Má ơi đừng gả con xa.
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu?
Đàn bà, con gái đa cảm - đã đành. Đàn ông cũng vậy:
Lạnh thấm lòng, mưa mai lác đác,
Quán bên hè, uống tách cà-phê.
Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê,
Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng.
Mà quê ông Bình Nguyên Lộc Bình Nguyên Lộc ở tận đâu lận? Chốn “muôn trùng” nào vậy cà? Thưa Tân Uyên, Bình Dương chớ đâu, cách cái quán cà phê mà ổng đang ngồi (bỗng chạnh tình quê) ở Sài Gòn cỡ chừng... ba mươi cây số!
Năm 1986 tôi có gặp lại tác giả Đò Dọc (đôi lần) nơi một thành phố nhỏ, phía cực Bắc của tiểu bang California. Lần nào chúng tôi cũng ra ngồi ở cái quán tầu của người Hồ Nam, có tên là Hunan Restaurant chỉ vì “họ có bán cơm” - theo như nhà văn giới thiệu.
Trông ông buồn hiu và hơi lạc lõng khiến tôi thốt nhớ đến cái câu thơ cũ nhưng chỉ dám đọc thầm:
Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng.
Ông qua đời vào năm sau, năm 1987. Ông sống hết nổi (chắc) tại quá buồn!
Người di tản nào cũng buồn nhưng không mấy ai buồn tới chết (luôn) như vậy. Phần lớn, với thời gian rồi ai cũng nguôi ngoai, quên hết những chuyện phũ phàng nơi chốn cũ để lật đật hội nhập vào đời sống mới - theo ghi nhận của Người Buôn Gió:
“Hóa ra mấy triệu người Việt ở hải ngoại, không phải tất cả là những người quan tâm đến đất nước như ta gọi tế nhị là 'lề trái’. Cũng như ở Việt Nam, nhiều người trong số họ sống hưởng thụ, ăn chơi, kiếm tiền gửi về cho người thân, thỉnh thoảng tham gia vài chương trình do sứ quán kêu gọi để lấy quan hệ thân thiện...
Y hệt trong nước, những người có tiền được khuyến khích từ đại sứ là thôi giờ đất nước đã ổn định rồi, có lòng với quê hương thì đóng góp từ thiện, quan tâm ba cái chuyện chính trị làm gì. Đại khái là đừng tham gia những chuyện mà chính quyền Việt Nam không ưa, cứ kiếm tiền rồi về Việt Nam tiêu, gửi về cho người thân, đóng góp từ thiện là cách hay nhất, an toàn nhất.
Số người Việt ở Châu Âu đa phần theo xu hướng sống này, nó cũng là bản chất chung của người Việt mấy chục năm gần đây ở trong nước... Dân Vệ chỉ thế thôi, đi đâu cũng vẫn thế.”
Ở Mỹ cũng thế sao?
Thì cũng gần như thế thôi, chứ biết làm thế nào hơn được. Xin xem qua bản tin (“Việt – Phi Biểu Tình Chống Trung Quốc & CSVN”) của ký giả Thanh Hà, trên tuần báo Việt Tribune, số phát hành hôm 26 tháng 7 năm 2013:
“Nhờ vào sự phối hợp nhịp nhàng và chặt chẽ giữa các cộng đồng người Việt với nhau, và nhất là với cộng đồng người Phi Luật Tân, một cuộc biểu tình có tính cách lịch sử đã diễn ra rầm rộ tại trước hai sứ quán Trung Cộng và Việt Nam vào trưa ngày thứ Tư, 24 tháng 7, 2013 vừa qua...
Để phản đối Bắc Kinh lấn biển và ủng hộ việc Philippines
kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Ảnh và chú thích của Bùi Văn Phú.
Riêng tại California, rất nhiều hội đoàn, tổ chức cộng đồng xã hội nhiều thành phần từ khắp nơi đã đáp lại lời kêu gọi của ông Nguyễn Phú, CT hội HO San Franciso tổ chức phối hợp với cộng đồng người Phi. Tuy cuộc biểu tình do cộng đồng người Phi đứng ra kêu gọi, nhưng sự hưởng ứng tích cực và đông đảo đồng bào người Việt tham dự đã đem lại niềm phấn khởi và ý nghĩa đặc biệt cho cuộc biểu tình nầy.
Vùng Bắc Cali có các phái đoàn đồng bào quân dân đến từ Sacramento, San Rafael, Fresno, v.v... San Jose có phái đoàn hùng hậu trên 50 người do ông Trương Thành Minh, chủ tịch Cộng đồng Người Việt Quốc gia, hướng dẫn, gồm nhiều đồng bào, hội đoàn quân dân, và cả người hùng Lý Tống. Lại thêm có phái đoàn cũng khá đông đảo cùng đi với các ông Nguyễn Ngọc Tiên và Phan Quang Nghiệp tham dự với cờ xí biểu ngữ đủ loại.
Khoảng 200 người, một số từ Quận Cam và San Diego đi xe đò qua đêm
lên San Francisco tham gia biểu tình. Ảnh và chú thích của Bùi Văn Phú.
Đặc biệt phải nói đến hai phái đoàn từ Nam Cali: Một từ quận Cam gồm ông Phan Kỳ Nhơn cùng liên ủy ban chống CS và tay sai, và cô Phương Nam với 5 hội đoàn trẻ, lái xe từ 4 giờ sáng. Và phái đoàn từ San Diego do ông Bùi Sơn đã khởi hành từ 2 giờ sáng để lên SFO cho kịp giờ biểu tình vào buổi trưa. Sự đông đảo bất ngờ nói lên tinh thần đoàn kết cao độ của cộng đồng người Việt khắp nơi, cùng sung công góp sức đấu tranh cho một mục tiêu chung nhằm yểm trợ cho các tiếng nói đấu tranh trong nước để đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.”
Theo blogger Bùi Văn Phú (người mà tôi đã có dịp bắt tay trong cuộc biểu tình “có tính cách lịch sử” và “rầm rộ” này) thì khoảng 500 người Việt và Philippines trưa ngày 24-7-2013 đã tụ họp... trước Tổng Lãnh sự quán Trung Quốc ở San Francisco để phản đối chính quyền Bắc Kinh lấn chiếm vùng biển Đông nam Á.”
Con số (hơi) hào phóng vừa nêu, xem ra, không chỉ khiêm tốn mà còn có vẻ tương phản với số lượng hàng trăm “hội đoàn quân dân” ở tiểu bang California – nơi mà người Việt tị nạn cộng sản quần tụ đông đúc nhất trên thế giới.
Nói cách khác, và nói nào ngay “tinh thần đoàn kết cao độ của cộng đồng người Việt khắp nơi, cùng sung công góp sức đấu tranh cho một mục tiêu chung nhằm yểm trợ cho các tiếng nói đấu tranh trong nước để đem lại tự do dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam” - ngó bộ - cũng không cao gì mấy. Chắc cũng không hơn bên Đông Âu nhiều lắm đâu (vẫn) theo như nhận xét của Người Buôn Gió:
“Tóm lại thì chuyện đấu tranh, dân chủ thì bên ngoài hải ngoại, chẳng phải ai cũng quan tâm đến. Phần lớn cũng muốn an phận, giữ hòa khí với chính quyền, thậm chí nhiều người dù ở bên ngoài vẫn còn sợ chính quyền Việt Nam...”
Về nỗi sợ hãi này, cách đây khá lâu, bà Lê Thị Công Nhân đã có lần phải năn nỉ: “Tôi e rằng chúng ta đã sợ quá mức cần thiết.”
Tuần rồi, tôi lại nghe một vị anh thư khác, nhà văn Võ Thị Hảo van nài: “Mỗi công dân Việt Nam, nếu cố gắng vượt qua sự sợ hãi và vô cảm thì chắc chắn sẽ chấn hưng được dân khí. Dân khí mạnh buộc kẻ ác phải chùn tay và phải cư xử đúng mực.”
Kẻ ác, bọn giặc ngoại lẫn nội xâm - rõ ràng - có đủ lý do để không “chùn tay” cũng như không “cư xử đúng mực” với... người mình!