Đầu làng trống,
cuối thôn chiêng,
Cây cỏ nước Nam như nghìn mũi giáo.
Muôn vạn binh
trăm ngàn mã,
Vọng tiếng loa cho Tống, Hán bay hồn.
Vầng nguyệt tỏ,
Ánh dương soi,
Sánh cùng nước Việt muôn đời hùng vỹ.
Nay, (2-9-1945)
Dòng sử Tiên Long bỗng gặp cơn nguy biến,
Vận nước nhà lâm nạn cộng phỉ hại dân.
Người trong nước đã muôn phần lao khổ,
Lại cánh cánh bên lòng cái hoạ ngoại xâm.
Thế cho nên
Chiêng hồi trống thúc.
Nào hỡi Tiên Long,
Như ngàn cơn sóng,
Cuốn với đại dương,
Đọ gan trời đất,
Chị ngã xuống, em đứng lên,
Dẹp cho tan lũ cộng Hồ buôn dân bán nước.
Mẹ phất cờ, Con ra trận,
Quyét cho sạch bọn bành trướng ra khỏi biên cương.
Người trong nước, Kẻ ngoài biên,
Quyết đưa biển cả núi sông về một mối an bình thái lạc.
Bởi gương xưa:
Tiền nhân ta, một thước kiếm xây nền đế nghiệp.
Dựng xã tắc, lấy Nhân Nghĩa yên định muôn dân.
Cuộc mở nước như ngọn thuỷ triều trong trời đất,
Dẫu hưng vong, vẫn lẫy lừng giữa chốn trời đông!
Năm Qúy Mão (43) đuổi Tô Định,
Sử nhà Nam ghi tạc công đức Nhị Trưng.
Dáng anh hùng, thân nhi nữ,
Bờ sông Hát ngàn thu còn nghi ngút khói hương.
Đất Thái Bình, (544) sinh Nam Đế,
Dòng sử Việt thêm một lần vạn thế lưu danh.
Cờ Thiên Đức, lầu Vạn Thọ,
Mở hội anh hùng Việt quốc Vạn Xuân.
Vạn Xuân, vạn Vạn Xuân,
Lúc khua chiêng, khi đánh trống,
Trăm vạn mã, ngàn chiến thuyền,
Nhấp nhô giữa Bạch Đằng ( 938) như ngàn con sóng bạc.
Tiếng quân Nam, trong gío bão.
Thế vươn cao trên đỉnh thác trảm Hoàng Thao.
Bàn chân Việt, bước thênh thang.
Năm lần phá tan quân nghịch tặc cướp nước.
Bến Chương Dương, thành Vạn Kiếp,
Cửa Hàm Tử sóng hồng đỏ lấp non sông.
Diệt Tống, Hán, triệt Thanh, Nguyên,
Xoay cơ trời, định bờ cõi, xây nền Độc Lập.
Ngựa Toa Đô, thuyền Ô Mã
Mộng bành trưóng khó thoát nạn sinh bắc tử nam.
Dòng nước xanh, vẫn miệt chảy.
Lớp sóng còn ghi nỗi nhục Lưu Cung,
Mà trang sử Việt thì muôn năm trường cửu.
Sang Giáp Thân (1284), Hội Diên Hồng,
Nghìn thu lưu dấu Hưng Đạo, Ngô Vương vì nước.
Công dọc đất, nghiệp ngang trời,
Làm cho khắp nơi sáng tỏ uy linh thần vũ,
Vây Đông Quan, hãm Chi Lăng,
Chỉ một trận mà Liễu Thăng thân vùi vó ngựa.
Bắt Thôi Tụ, tha Vương Thông,
Kiếm Thuận Thiên, bạt ngang trời, Lam Sơn vì nghĩa.
Sang Đinh Mùi (1427) vạch biên cương,
Đất chung một dải, thiên thư định phận: Mỗi nhà một cõi.
Nước chảy cùng dòng, cao xanh đã tạo: Nguồn cội khác nhau.
Đến Kỷ Dậu (1789) mở đường sử mới,
Bắc Bình Vương ra tới Thăng Long,
Vào Ngọc Hồi, Sầm Nghi thắt cổ.
Sang Đống Đa, xác Hán từng gò.
Tiếng quân reo long trời lở đất,
Tung vó ngựa, trúc chẻ ngói tan,
Sỹ Nghị bỏ chạy mà Càn Long vỡ mật!
Đất nhà Nam thiên thu đại định…
Tiếc thay, thế cuộc chuyển vần,
Tổ quốc chưa vui hết ngày hội, mà nơi phương Nam lệ đổ tiễn Quân Vương!
Gặp cơn nước đục Nguyễn thời đi cầu binh ngoại để gieo cái hoạ cho nước.
Đầu làng, cuối xóm chó sủa thâu đêm, dân tình không có được giấc ngủ yên.
Trong nhà con thơ khát sữa, ngoài phố phu thợ, lao công thời ho ra máu.
Ghê gớm thay, Cuồng bạo thay!
Cái ách phong kiến, ngoại xâm.
Nhưng giữa trùng trùng tai trời ách nước,
Hịch Hàm Nghi lại vang vọng bốn phương.
Vì Tổ Quốc, người yêu nước lại đứng lên vì nước.
Mở tương lai, một giấc anh hùng,
Toàn dân lấy máu xương mà rửa Quốc thù.
Sau trăm năm, mạch sống xoay vần,
Cơ trời thăng hoa, đất chuyển động,
Non sông chưa thoát ngoại xâm, cộng sản đã dựng cờ hồng. (1930)
Gặp năm đói (1945) chuột đồng về phố,
Cửa nhà hoang, máu đổ khắp thành.
Sáng đấu tố, chiều đấu tố, đấu cho hết những người vì tổ quốc,
“Đào tận gốc, trốc tận rễ”, quyét cho sạnh đạo lý luân thường!
Nơi tôn nghiêm, cộng kéo về là đá không còn chồng trên đá,
Phá chùa xưa, đập giáo đường, miếu thần hoàng gạch nát từng viên.
Cảnh đồng hoang, hồ khô cạn, xác chết chương lên giữa phố bốc mùi ô uế.
Bầy chuột đói, chạy vòng quanh, bày đàn hương án, chia phiên bán nước cầu vinh.
Chiều đại nạn, đất lặng tiếng,
Trời lặng yên, ai biết đâu mà réo gọi.
Trong đêm tối, đưòng mã tấu, như ánh sao,
Người ngã xuống cho máu loang khắp mọi chốn.
Lúc nắng lên, đôi dép râu,
vào từng nhà, ra tận mộ, réo từng tên mà tra khảo của.
Người chết không nấm mồ,
Kẻ sống mất cơ nghiệp.
Xác trôi sông, theo dòng chảy, ấy công nghiệp vĩ đại Hồ tinh.
Tám mươi năm, máu thành dòng, xương cốt Việt chất cao bằng núi,
Kinh hãi thay cảnh giết người, dẫu phong kiến, ngoại xâm xưa nay chưa thấy:
Thằng bé mới lên năm,
mặt xanh như tàu lá,
ngã chúi đầu trên sân,
mồm ấp a ấp úng,
Ông ơi, Hồ…. Hồ chí Minh giết người.
Đứa trẻ năm xưa,
nay đầu đã bạc,
tên người tưởng ma,
đổ gục xuống đất,
đôi mắt trừng trừng,
máu trào ra miệng. Lại cũng là… nó!
Cắc… cắc, tùng … tùng … cheng
Việt Minh lập hội, tiêu Công Lý,
Cộng Sản kết bè, hết Tự Do.
Hỡi ơi, cơn đau như xé ruột,
Tiếng thét uất nghẹn chẳng ra hơi
Mảnh đất nào cho dân ta ở,
Nước sông nào cho dân ta uống,
Gạo thóc nào cho dân ta ăn,
Sữa mẹ nào cho con bú mớm.
Tám mươi năm giặc cộng kéo về,
Bấy nhiêu năm đau thương chẳng cạn.
Ôi! ngày đại nạn, sao người ngủ yên!
Nào hỡi Tiên Long,
Hãy một lần nhìn lại xem giang sơn cẩm tú.
Bắc Hồng Hà, nam Cửu Long, nối liền thân một gánh Hoàng Liên.
Từ Nam Quan, đến Cà Mâu, lưng tựa Trường Sơn chung sức tràn ra biển lớn
Là cơ đồ, là sản nghiệp, là hơi thở,
là máu xương của tiền nhân để lại cho lũ cháu đàn con,
Mà nay một giải giang sơn ấy,
không còn nơi nào thiếu dấu chân quan cán thời Tống – Hán!
Đau xót chưa, Nam Quan, Bản Giốc,
Hoàng Sa, Trường Sa là đất Mẹ nay bỗng đổi tên ra xứ người!
Ôi! Quốc phá gia phong.
Nước mắt lau chẳng ráo,
Ai thương vì hai chữ Non Sông.
Dân không nhà, nước vô chính lệnh.
Trên, một bầy đoàn cán cộng vui mừng làm lễ lên ngôi thái thú.
Dưới, phận lê dân, cơm không no, áo không ấm, sống đời nô lệ,
Hỡi toàn dân Việt,
Tổ Quốc lâm nguy.
Ai người vì nước,
Đứng dậy mà đi.
Người lên rừng, nung chí bắt voi, hổ báo,
Có lẽ nào lo ngại chồn cáo mèo hoang?
Kẻ xuống biển tìm diệt kình ngư, hà bá,
Có khi nào lại sợ cóc nhái dưới chân?
Nào ta đi cho Việt Nam ngời sáng,
Này ta về cho hồn nuớc trào dâng.
Đất của Mẹ, một ngọn cỏ ta thề không bỏ,
Núi nước Nam, một viên đá ta quyết chẳng rời.
Chị ngã xuống, em đứng dậy,
Diệt cho hết phường bán nước hại dân,
Mẹ phất cờ, con ra trận,
Quét cho sạch bọn bành trướng bắc phương.
Người trong nước, kẻ ngoài biên,
Dựng cho cao ngọn cờ Độc Lập.
Hát cho đều tiếng hát Tự Do.
Cho ngàn ngàn sau, dòng sử Việt còn lưu danh cùng trời đất.
Để vạn vạn thế, người nước Nam cùng bốn bể an lạc, hòa minh.
2-9-1945/ 2-9-2015.